trang đã tăng trưởng đến trên 600.000 binh lính chỉ trong 5 năm sau
khi thành lập nên đã tạo ra một khoảng cách rất lớn về thời gian cần
thiết để được thăng cấp giữa các thế hệ tốt nghiệp KMA. Những ai
mang quân hàm càng cao vào năm 1948 thì sau đó càng thăng tiến
nhanh. Đối với những người nhập ngũ từ sớm, việc quân đội nhanh
chóng mở rộng trong Chiến tranh Triều Tiên đồng nghĩa với cơ hội rất
lớn để thăng tiến. Khi nắm giữ những vị trí cao hơn, họ phải ngăn
không cho cấp dưới được lên nhanh như mình. Ví dụ, trong khi các
học viên khóa KMA 5 lên đến hàm đại tá chỉ trong vòng 8 năm sau
khi tốt nghiệp, thì học viên khóa KMA 8 lại phải trải qua 8 năm mà
chỉ được thăng hàm từ thiếu tá lên đến đại tá. Vào cuối những năm
1950, sự bất công trong thăng tiến này đã khiến các trung tá và đại tá
vô cùng bất bình. Chính những người này sẽ trở thành thành phần
nòng cốt của cuộc đảo chính năm 1961.
Tình hình này đã đủ chín muồi để quân đội can thiệp vào chính trị,
với cả những yếu tố “đẩy” và “kéo” cho phép các phe phái quân sự
thách thức giới lãnh đạo chính trị dân sự. Tuy nhiên, để lực lượng
quân đội chuyên nghiệp bị chính trị hóa này có thể đoạt được chính
quyền và dẫn dắt xã hội cần phải có một vị chỉ huy có thể liên kết vô
số bè phái quân sự vào một liên minh rồi truyền vào đó nguồn cảm
hứng chung về sứ mệnh và mục đích bằng tầm nhìn, sức hấp dẫn, đầu
óc chiến lược và khả năng tổ chức của mình. Vị chỉ huy đó chính là
Park Chung Hee.
Đồng thời, không nên phóng đại sự ủng hộ mà các lực lượng vũ
trang dành cho Park trong giai đoạn đảo chính. Điều ngược lại có vẻ
đúng hơn bởi lực lượng chính thống của quân đội Hàn Quốc không hề
ủng hộ, nếu không nói là chống đối cuộc đảo chính năm 1961. Và
Park cũng không phải là một chỉ huy trời sinh của toàn bộ quân đội
Hàn Quốc. Như nhiều hệ thống tổ chức có cùng quy mô, lực lượng vũ
trang Hàn Quốc cũng có những xung đột nội bộ giữa các nhóm cạnh
tranh. Vào thời điểm diễn ra đảo chính, Park chỉ là phó tư lệnh của