định những người “đang phục vụ hoặc lao động tại một bang… chạy trốn
sang bang khác… sẽ bị trao trả lại…”
Thỉnh thoảng, các đầy tớ cũng tổ chức đình công. Năm 1663, một ông chủ
tại Maryland thưa kiện lên Tòa án tỉnh rằng đầy tớ của ông ta “kiên quyết
và dứt khoát từ chối thực hiện công việc bình thường mà họ được giao”.
Các đầy tớ đáp lại là họ chỉ được cho ăn toàn “đậu và bánh mỳ”, do vậy
“chúng tôi đã trở nên quá yếu và không đủ sức để thực hiện công việc mà
ông chủ giao phó”. Họ đã bị tòa phạt ba mươi roi.
Đến hơn một nửa những người đi khai phá thuộc địa khi đặt chân đến các
bờ biển Bắc Mỹ trong thời thuộc địa đã trở thành đầy tớ. Đa phần trong số
đó là người Anh đến từ thế kỷ XVII, người Ailen và Đức đến từ thế kỷ
XVIII. Dần dần, những người nô lệ thế chân họ, sau khi họ đã tìm cách bỏ
trốn để tìm sự tự do hoặc đã chấm dứt thời hạn hợp đồng, nhưng đến tận
năm 1755, đầy tớ da trắng vẫn chiếm tới 10% tổng dân số Maryland.
Điều gì xảy ra đối với những đầy tớ này sau khi họ được tự do? Cũng có
một số người được số phận mỉm cười vươn lên đến sự giàu có, trở thành
chủ đất hoặc những nhân vật quan trọng. Nhưng sau khi nghiên cứu kỹ
lưỡng, Abbot Smith đã kết luận rằng xã hội thuộc địa “không hề dân chủ và
chắc chắn không công bằng, xã hội đó bị chi phối bởi những người có đủ
tiền để bắt người khác làm việc cho họ”. Và “chỉ rất ít trong số những người
thành đạt đó có nguồn gốc là đầy tớ và trên thực tế là không có đầy tớ nào
được trực tiếp xếp vào tầng lớp đó”.
Sau khi tiếp cận theo cái nhìn khinh bỉ của Abbot Smith đối với đầy tớ (“đó
là những người đàn ông và đàn bà bẩn thỉu, lười nhác, thô lậu, ngu dốt, dâm
đãng và thường hay phạm tội”, “những kẻ thường hay lang thang, trộm cắp,
có những đứa con hoang và đầu độc xã hội với đủ loại bệnh tật”), chúng ta
thấy một thực tế là “chỉ khoảng 1/10 là những cá nhân khỏe mạnh, cứng
cáp, những người mà nếu may mắn sống sót, kết thúc thời gian hợp đồng,