kiếm ít đất đai và dần phát đạt”. Có lẽ khoảng một phần mười khác trở
thành thợ thủ công hoặc đốc công. 80% còn lại chỉ là “… những cá nhân
ươn hèn, vô vọng, suy nhược” sẽ “hoặc là chết trong thời gian đang phục
vụ, quay trở về Anh sau khi hết thời hạn, hoặc trở thành những người da
trắng nghèo khó”.
Kết luận của Smith càng được củng cố bởi một nghiên cứu rất gần đây về
đầy tớ vào thế kỷ XVII tại Maryland, ở đó người ta phát hiện rằng nhóm
đầy tớ đầu tiên đã trở thành các chủ đất và tham gia tích cực vào các hoạt
động chính trị tại thuộc địa, nhưng sang đến nửa sau của thế kỷ, hơn một
nửa số đầy tớ, thậm chí sau khi đã được trả tự do mười năm vẫn không hề
có chút đất đai. Đầy tớ trở thành tá điền, cung cấp sức lao động rẻ mạt cho
các chủ đồn điền lớn trong thời hạn và cả sau khi hết hạn hợp đồng.
Một điều có vẻ rất rõ ràng là ranh giới giai cấp trở nên rõ nét trong thời
thuộc địa, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt hơn. Đến năm 1700, có
khoảng 50 gia đình giàu có tại Virginia, với tài sản tương đương 50 nghìn
bảng (một khoản tiền khổng lồ lúc bấy giờ). Các gia đình này sống trên sức
lao động của những người nô lệ da đen và đầy tớ da trắng, sở hữu các đồn
điền, giữ các vị trí trong hội đồng các cấp, đóng vai trò như các quan tòa địa
phương. Tại Maryland, những người đến định cư bị cai quản bởi một tay
chủ − người toàn quyền kiểm soát đối với thuộc địa mà Hoàng gia Anh đã
công nhận. Từ năm 1650-1689, đã có năm cuộc nổi dậy chống lại tay chủ
này.
Năm 1660, tại Carolinas , Hiến pháp Cơ bản đã được John Locke, người
được xem là bậc thầy triết học của Những người cha lập quốc và chế độ của
nước Mỹ, soạn thảo. Hiến pháp này xây dựng một chế độ quý tộc theo kiểu
phong kiến, trong đó tám nam tước có thể sở hữu 40% tổng diện tích đất đai
thuộc địa, và chỉ có một nam tước có thể trở thành thống đốc. Khi nhà vua
giành quyền kiểm soát trực tiếp đối với vùng Bắc Carolina, và sau cuộc nổi