Tại Newport, Rhode Island, cũng như tại Boston, Bridenbaugh đã phát hiện
ra rằng “các cuộc họp của thị trấn, trông có vẻ rất dân chủ, nhưng hết năm
này sang năm khác bị kiểm soát bởi một nhóm quý tộc thương gia − những
người giữ hầu hết các trọng trách quan trọng…” Một người thời đó đã miêu
tả các thương gia vùng Newport là “… những người đàn ông trong gi-lê và
áo khoác màu đỏ sặc sỡ, trang điểm thêm bằng dây và đính tua màu vàng
lấp lánh. Những người theo giáo phái Quaker ranh mãnh, dẫu thích những
bộ quần áo lộng lẫy này nhưng không dám vận lên người và thường trang
trí tủ búp-phê của họ bằng các bộ bát đĩa bằng vàng, bạc”.
Tầng lớp quý tộc ở New York là những người hay phô trương nhất,
Bridenbaugh đã miêu tả “cửa sổ trang trí các tấm vải lạc đà, những chiếc
bàn kiểu Nhật, kính đeo mắt gọng vàng, đàn xpinet và những chiếc đồng hồ
quả lắc lớn với động cơ chạy được tám ngày mới phải lên giây… đồ gỗ
chạm khảm cầu kỳ, đồ trang sức, các bộ đồ ăn bằng bạc… Những đầy tớ da
đen”.
New York thời thuộc địa chẳng khác gì một quốc gia phong kiến. Người Hà
Lan đã thiết lập một hệ thống bảo hộ dọc theo sông Hudson với những điền
trang khổng lồ, trong đó các nam tước kiểm soát chặt chẽ cuộc sống của các
tá điền. Năm 1689, mối bất bình của nhiều người nghèo đã hòa quyện trong
một cuộc nổi dậy của nông dân do Jacob Leisler và nhóm của ông ta lãnh
đạo. Leisler bị treo cổ, việc phong tỏa các điền trang vẫn tiếp tục. Dưới thời
Thống đốc Benjamin Fletcher, ba phần tư diện tích đất tại New York đã
được cấp cho khoảng 30 người. ông ta đã dành cho một người bạn nửa triệu
mẫu chỉ đổi lấy một khoản chi trả tượng trưng hàng năm là 30 đồng shilling
(1 shilling bằng 1/20 bảng Anh). Dưới thời Lord Cornbury (Thống đốc New
York và New Jersey – ND) vào đầu những năm 1700, người ta đã cấp
không hai triệu mẫu đất cho một nhóm các tay đầu cơ.