Năm 1700, các giám mục nhà thờ tại thành phố New York đã yêu cầu hội
đồng chung cấp ngân sách bởi lẽ “tiếng kêu khóc của những người nghèo
và bất lực mong muốn được cứu giúp là vô cùng thống thiết”. Vào những
năm 1730, nhu cầu lập các trung tâm từ thiện để chứa chấp “rất nhiều người
ăn mày lang thang cơ nhỡ trên khắp các đường phố” bắt đầu tăng cao. Hội
đồng thành phố đã ra một nghị quyết:
Chiểu theo nhu cầu cấp thiết, do số lượng người nghèo ngày càng gia tăng
trong thành phố, thường có những cách cư xử xấu; những người vô công rồi
nghề và thất nghiệp, trở nên sống trác táng hoặc làm cho những người khác
cũng bị nhiễm thói trộm cắp hoặc sống trụy lạc. Do đó các biện pháp tức thì
là xây dựng các khu nhà chắc chắn, thuận tiện cho các đối tượng trên.
Một tòa nhà gạch hai tầng được xây dựng có tên là “Nhà tế bần, Trại cải
tạo, Nhà trừng giới”.
Năm 1737, một lá thư gửi Peter Zenger, chủ bút của New York Journal, đã
miêu tả những đứa trẻ cầu bơ cầu bất của các khu phố nghèo ở New York
như sau: “một vật thể trong hình dạng con người, đói lả trong giá rét, áo
xống như xơ mướp không che nổi khuỷu tay, đầu gối lòi hết khỏi ống quần,
tóc tai dựng đứng… Trong lứa tuổi khoảng từ bốn đến mười bốn thì chúng
vất vưởng cả ngày trên đường phố… sau đó bị bắt đi học nghề, có lẽ trong
từ bốn đến năm, sáu năm...”
Các thuộc địa đã phát triển nhanh chóng vào những năm 1700. Bổ sung vào
nhóm người định cư từ Anh là những người nhập cư từ Đức, Scotland –
Ailen. Nô lệ da đen cũng được chở đến ùn ùn; họ chiếm 8% dân số vào năm
1690, 21% vào năm 1770. Dân số của các thuộc địa năm 1700 là 250 nghìn
người, đến năm 1760, con số đó đã lên tới 1.600 nghìn người. Nông nghiệp
rất phát triển. Nền sản xuất nhỏ cũng bắt đầu phát triển. Vận chuyển bằng
đường biển và buôn bán được mở rộng. Các thành phố lớn như Boston,