New York, Philadelphia, Charleston gần như đã phát triển gấp đôi, gấp ba
về quy mô.
Nhờ vào sự tăng trưởng đó, tầng lớp thượng lưu giành được hầu hết các lợi
ích và độc quyền chính trị. Một nhà sử học chuyên nghiên cứu về vấn đề
thuế tại Boston vào những năm 1687 và 1771 đã phát hiện ra rằng, vào năm
1687, trong số 6 nghìn dân, chỉ có khoảng 1 nghìn chủ sở hữu bất động sản;
và 5% hàng đầu của số đó, tương đương 1% dân số, bao gồm 50 cá nhân
giàu có sở hữu tài sản chiếm 25% tổng tài sản của cả cộng đồng. Đến năm
1770, chỉ 1% hàng đầu trong số các chủ bất động sản đã chiếm tới 44% toàn
bộ của cải.
Trong giai đoạn Boston phát triển từ năm 1687-1770, tỷ lệ nam giới trưởng
thành thuộc diện nghèo, thường sống trong cảnh thuê phòng, hoặc ngủ nhờ
ở góc quán trọ, thường là không có tài sản đã tăng từ 14% lên 29%. Không
có tài sản cũng đồng nghĩa với không có quyền bỏ phiếu.
Ở bất cứ chỗ nào, người nghèo cũng phải vật lộn để tồn tại, có khi chỉ là để
khỏi chết rét trong mùa đông lạnh giá. Vào những năm 1730, tất cả các
thành phố đều xây dựng nhà tế bần, không chỉ dành cho người già, người
góa bụa, người khuyết tật, trẻ mồ côi, mà còn dành cho cả những người thất
nghiệp, cựu binh, những người mới nhập cư. Vào giữa thế kỷ XVIII, tại
New York, nhà tế bần của thành phố − vốn được thiết kế để phục vụ 100
người nghèo − đã trở thành nơi tá túc của 400 người. Năm 1748, một công
dân tại Philadelphia đã viết: “Thật ngạc nhiên không hiểu tại sao mùa đông
năm nay tại thành phố này lại có nhiều người ăn xin đến thế”. Năm 1757,
các quan chức thành phố Boston đã nói đến việc “một lượng lớn những
người nghèo… thi thoảng mới có thể mua được bánh mỳ cho bữa ăn hàng
ngày của gia đình và bản thân họ”.
Trong một nghiên cứu về khu thuộc địa New England, Kenneth Lockridge
đã phát hiện ra rằng những người lang thang khốn khổ liên tục gia tăng và