120.000 người.
Với ý thức tôn giáo mạnh mẽ và sự tôn trọng pháp luật,
người Do Thái có tính kỷ luật cao và chăm chỉ. Họ tỏa ra các vùng lãnh thổ
giáp ranh với Judah, nhất là Galilee, Transjordan và duyên hải. Cộng đồng
Do Thái hải ngoại mở rộng một cách vững chắc. Người Do Thái tạo ra sự
cải đạo. Họ bắt đầu trở thành một lực lượng đi thuyết phục người khác chấp
nhận tín ngưỡng của mình. Dù vậy, họ vẫn là một dân tộc nhỏ bé trong kỷ
nguyên các đế chế, một đơn vị tôn giáo-văn hóa không thỏa hiệp trong một
thế giới rộng lớn, bầm dập.
Các vấn đề bắt đầu hiện ra từ năm 332 TCN, khi Alexander xứ Macedon
đập vỡ đế chế Ba Tư như một quả trứng ung. Đây là cuộc xâm lăng châu Á
đầu tiên từ châu Âu. Trong thiên niên kỷ 3 và hầu hết thiên niên kỷ 2 TCN,
khoảng cách giữa hai lục địa không tồn tại: biển là chất kết dính tạo nên
một nền văn hóa quốc tế chung. Nhưng sau đó là tình trạng hỗn loạn man
rợ của các thế kỷ 12, 11 TCN và một Kỷ nguyên đen tối kéo dài. Khi thế
giới bước vào nền văn minh thời kỳ đồ đồng, sự phân chia Đông-Tây bắt
đầu xuất hiện, và từ phía tây xuất hiện một trong những lực lượng văn hóa
hùng mạnh nhất mà thế giới từng chứng kiến: nền văn minh polis, thành
bang Hy Lạp.
Người Hy Lạp phải nuôi một dân số liên tục dư thừa. Họ tạo ra thương mại
biển khắp nơi. Họ lập các thuộc địa khắp Địa Trung Hải. Vào thời
Alexander, họ tiến vào châu Á và châu Phi, và từ đế chế của ông, những
người kế vị dựng nên các vương triều ở nhiều nơi: Ptolemy ở Ai Cập,
Seleucus ở Syria và Lưỡng Hà, và sau này là Attalus ở Anatolia. Từ năm
332 đến năm 200 TCN, người Do Thái bị người Ptolemy, sau đó là người
Seleucus, cai trị. Những người cai trị mới này khiến người Do Thái kính nể
lẫn sợ hãi. Người Hy Lạp có thứ vũ khí đáng sợ và tuyệt đối thời đó là đội
hình phalanx. Họ xây dựng những bộ máy chiến tranh ngày càng hùng
mạnh, những cỗ máy vây hãm sừng sững, những tàu chiến khổng lồ, những
pháo đài đồ sộ. Sách Daniel mô tả chủ nghĩa quân phiệt Hy Lạp từ góc độ
Do Thái: “Mãnh thú thứ tư, dễ sợ đáng kinh, và mạnh quá đỗi. Nó có nanh