tăm như vậy có vô số người tới gặp để xin lời khuyên. May mắn là Philo có
thể thực hiện các nghĩa vụ cai trị cùng với anh mình, một trong những
người giàu có nhất của cộng đồng Do Thái lưu vong, người mà Josephus
gọi là Alabarch.
Ý tưởng về hai anh em giúp nhau giải quyết các tuyên bố trái ngược, một
bên là về việc học và chú giải, một bên là về việc quản trị pháp luật và các
nghĩa vụ công khác, là một lý do quan trọng giải thích tại sao chế độ giáo sĩ
trị Do Thái thường là một vấn đề gia đình. Các triều đại học giả ban đầu
xuất phát từ các gia tộc thầy thông giáo và là một đặc điểm của đời sống
Do Thái từ thế kỷ 2 TCN. Ở một số xã hội Do Thái, các triều đại này tồn tại
cho tới tận Thế chiến I - và thậm chí sau đó nữa.
Ở Babylon, người đứng đầu cộng đồng Do Thái ở đây phải xuất thân từ gia
tộc David, nhưng tất cả những người quan trọng ở các học viện và yeshivot
đều được chọn từ một nhóm gia tộc có học vấn đã được thừa nhận. Cụm từ
“không phải con nhà có học, mà là con nhà buôn” mang tính miệt thị - dù
tiền của nhà buôn giúp duy trì các học viện. Ở Babylon, gaon hay người
đứng đầu mỗi học viện đến từ một trong sáu gia tộc, và ở Palestine người
đứng đầu này phải là con cháu của Hillel, Thầy thông giáo Ezra, hoặc
David. Một người ngoài có học vấn xuất sắc cũng có thể được chấp nhận,
tuy hiếm khi xảy ra. Trong hệ thống thứ bậc của học viện cũng vậy, dòng
dõi thường mang tính quyết định. Tất nhiên, xét về nguồn gốc, các học viện
lớn và lớn hơn không hẳn là nơi người trẻ được dạy dỗ như các hội đồng -
từ yeshivah là phiên bản tiếng Hebrew của từ synhedrion hay Sanhedrin.
Trên thực tế, ở thời trung cổ chúng vẫn được gọi là “Sanhedrin lớn” trong
các tài liệu Torah chính thức. Học viện Palestine cũng tự gọi mình là “Hội
đồng đạo đức.” Đây là nơi các học giả ngồi lại với nhau để đưa ra những
phán quyết quyền lực - học viện, nghị viện, tòa án tối cao, ba trong một.
Một học giả đến từ một trong các học viện ở Babylon, viết ở Ai Cập ngay
trước thời Maimonides, mô tả hệ thống thứ bậc học hành như sau. Người