với Chúa, hoặc có được hiểu biết về Chúa thông qua các phương tiện phi lý
trí. Chương 8 Sách Châm ngôn và Chương 28 Sách Job, ở những phần
được viết bằng phép ẩn dụ và phép loại suy, coi trí tuệ là một lực lượng
sống sáng tạo, là chìa khóa mở cánh cửa đến với Chúa và vũ trụ, có vẻ như
là nguồn gốc cho ý nghĩ đó. Ở những thời kỳ sau, bất cứ khi nào một người
Do Thái duy lý tìm cách ngăn chặn chủ nghĩa thần bí, thì người đó lại thấy
những người ủng hộ chủ nghĩa thần bí luôn trích dẫn Kinh Thánh để phản
bác mình.
Họ còn có thể trích dẫn Talmud nhiều hơn thế, vì đến giai đoạn đó, Do Thái
giáo đã học được rất nhiều yếu tố thần bí. Một số học giả cho rằng các yếu
tố này được học từ Ba Tư thời lưu vong; một số khác, hợp lý hơn, cho rằng
chúng đến từ thuyết ngộ đạo Hy Lạp. Thuyết ngộ đạo, hay hệ thống trí thức
bí mật, là một sự tăng trưởng ký sinh vô cùng dai dẳng, nó như một dây
thường xuân độc hại bám vào thân cây khỏe mạnh của một tôn giáo lớn.
Trong Kitô giáo, các vị linh mục thời xưa phải chiến đấu quyết liệt để ngăn
không cho nó bóp nghẹt đức tin Kitô. Nó cũng tấn công cả Do Thái giáo,
nhất là trong cộng đồng Do Thái lưu vong. Philo, trong tác phẩm De Vita
Contemplativa (Cuộc đời trầm ngâm), viết về một giáo phái có tên là
Những người thờ cúng Chúa, họ đã phát triển học thuyết về Torah như một
cơ thể sống, một ý tưởng ngộ đạo tiêu biểu.
Nó thâm nhập các giới ở
Palestine, những người thường phản kháng các ý tưởng Hy Lạp mạnh mẽ
nhất - từ người Pharisee, người Essene, giáo phái Qumran, cho đến các học
giả tannaim và học giả amoraim sau này. Josephus nói rằng người Essene
có một nền văn học ma thuật. Thời kỳ nở hoa thực sự đầu tiên của nó là
thời tận thế.
Những cuốn sách này, mà tác giả thực sự của chúng ẩn danh đằng sau mấy
cái tên Enoch, Moses, Noah, Baruch và các nhân vật lịch sử vĩ đại khác,
đều mang tính bài ngoại, dân tộc chủ nghĩa và đầy giận dữ, như chúng ta đã
thấy; chúng là nơi trú nạn đầy tức giận, cay đắng của một dân tộc bị áp bức,
gọi mưa to gió lớn đổ xuống đầu những kẻ thù của mình vốn được trang bị