bởi người theo giáo lý Luther, người Kitô từ Bắc Ý, và nhất là bởi người
Do Thái.
Thứ mà những cộng đồng di cư này chia sẻ không phải là thần học, mà là
sự sẵn lòng sống dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước đối với tư tưởng
tôn giáo và đạo đức theo lệnh từ các cơ sở tăng lữ. Tất cả họ phản đối hệ
thống thứ bậc tăng lữ, ủng hộ việc quản lý tôn giáo của giáo đoàn và lương
tâm cá nhân. Xét theo mọi khía cạnh này, người Do Thái là điển hình nhất
cho các nhánh người di cư khác nhau. Họ đã phản đối chế độ tăng lữ kể từ
khi Ngôi đền thứ hai bị phá hủy. Họ đã sử dụng chế độ giáo đoàn từ lâu
trước khi có bất cứ giáo phái Tin Lành nào. Cộng đồng của họ chọn ra giáo
sĩ cho riêng mình, và hình thức phân quyền này khả thi là do không có giáo
lý thần học và do tinh thần bao dung tri thức. Trên tất cả, họ là những người
định cư rất giỏi giang. Họ đã di cư trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Là
khách trọ và người ngụ cư từ thuở xa xưa nhất, họ đã trải qua nhiều thế hệ,
và trong vô vàn các tình huống khác nhau, hoàn thiện nhiều nghệ thuật di
cư, nhất là kỹ năng tập trung của cải của mình để nó có thể nhanh chóng
được chuyển từ một điểm nguy hiểm tới một khu vực tái định cư. Công
việc buôn bán, nghề thủ công, nền văn hóa dân gian và luật pháp của họ kết
hợp lại để hỗ trợ cho việc di cư đầy sáng tạo ấy.
Đó là một lý do tại sao những người Do Thái mới đến, bất kể rủi ro của họ
là gì, luôn có vẻ như có vốn lưu động. Và điều đó khiến họ nhìn chung
được chào đón. Như một nhà biện giải Do Thái, Manasseh ben Israel, nói
vào giữa thế kỷ 17:
Do đó, có thể thấy rằng Chúa chưa bỏ chúng ta; vì nếu một người ngược đãi chúng ta, thì một
người khác lại đón tiếp chúng ta lịch sự nhã nhặn; và nếu hoàng thân này đối xử tệ với chúng
ta, thì hoàng thân kia lại đối xử tốt với chúng ta; nếu một người trục xuất chúng ta ra khỏi đất
của họ, thì một người khác lại mời chúng ta tới với cả ngàn đặc quyền; như các hoàng thân
của Ý, Vua Đan Mạch kiệt xuất nhất, và Công tước Savoy hùng mạnh ở Nissa, đã từng làm.