luôn thể hiện một sự không sẵn lòng đặc biệt trong việc làm sáng tỏ và nhìn
ra đúng bản chất của tiền bạc - một thứ hàng hóa như bất cứ thứ hàng hóa
nào khác mà giá trị của nó chỉ là tương đối. Các xã hội loài người quả thực
có xu hướng gắn giá trị tuyệt đối cho mọi thứ hàng hóa - mà không thấy
rằng giá trị của một thứ thay đổi theo thời gian và không gian - nhất là tiền
bạc vì nó có một giá trị cố định rành rành. Các xã hội loài người cũng đầu
tư tiền bạc bằng những hàm ý đạo đức đặc biệt. Tại sao Thánh Paul lại cho
rằng, và vô số triệu người nhắc lại không chút suy nghĩ, “Vì tham tiền là
cội rễ mọi sự dữ”? Tại sao không phải là tình yêu đất đai hoặc tình yêu gia
súc hay đàn ngựa; hoặc nhà cửa hay tranh vẽ? Nhất là tình yêu quyền lực?
Không có lý do chắc chắn nào để giải thích tại sao tiền bạc lại được nhìn
nhận với sự sỉ nhục như vậy. Hơn nữa, khác biệt đạo đức giữa tiền bạc với
mọi thứ hàng hóa khác lan sang cả khái niệm đầu tư, khiến cho việc xây
dựng một khuôn khổ đạo đức cho việc tiết kiệm và phát triển kinh tế trở
nên vô cùng khó khăn. Con người chăn nuôi gia súc với niềm vinh dự; họ
gieo hạt và thu hoạch một cách xứng đáng. Nhưng nếu họ khiến tiền bạc
sinh lời cho họ thì họ là loài ký sinh và sống dựa vào “tiền lời không xứng
đáng,” như cách người ta gọi nó sau này.
Người Do Thái ban đầu cũng là nạn nhân của sự ngụy biện này như bất cứ
ai. Quả thực, họ sáng tạo ra nó. Nhưng kỹ thuật duy lý tôn giáo và tình thế
khó khăn của họ trong vai trò nhà buôn tiền bạc bất đắc dĩ, cuối cùng khiến
họ sẵn lòng đối mặt với vấn đề này và giải quyết nó. Như chúng ta đã thấy,
họ khởi đầu bằng việc đề ra một tiêu chuẩn kép cho các giao dịch tiền bạc
với người Do Thái và dân ngoại. Một số yếu tố của việc này còn sót lại
thậm chí cho tới ngày nay: nhiều ngân hàng Do Thái ở Israel (và các nơi
khác) dán thông báo về việc những khoản vay giữa người Do Thái với nhau
sẽ tuân thủ luật tôn giáo. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ 15, những người duy lý
Do Thái tìm cách tước bỏ ma thuật của tiền bạc. Trong một cuộc tranh chấp
ở Ferrara năm 1500, Giáo sĩ Abraham Farissol xứ Avignon, sử dụng một
lập luận quen thuộc (và có phần thiếu trung thực) của các nhà đổi mới sáng