Của ngươi đó đống rác bẩn trên bờ biển.
Gửi tới cho ta những con người này, vô gia cư, khốn khổ.
Ta giơ đèn lên bên cạnh cánh cửa vàng.
Đặc biệt, Emma Lazarus hiểu được ý nghĩa của Mỹ đối với cộng đồng Do
Thái thế giới. Theo thời gian, những đám đông túm tụm chẳng sẽ đứng
thẳng dậy, lớn mạnh và xòe bàn tay mạnh mẽ từ Tân thế giới cho Cựu thế
giới sao? Bài thơ của cô, “Khẩu hiệu của một người Do Thái,” có tính Zion.
Bài “Thư gửi người Hebrew” (1882-1883) của cô tiên đoán về sự phục hồi
của văn minh Do Thái thông qua hành động của hai bên từ Mỹ và Vùng đất
Thánh. Trong đống rác bẩn của cộng đồng Do Thái Mỹ tích tụ nơi các khu
ổ chuột ở New York, cô không chỉ thấy cuộc sống mà còn cả hy vọng.
Chắc chắn có cuộc sống trong sự dư thừa đến đáng sợ. Khi những người
mới tới đổ về New York, các giáo đường kiểu Đức thời thượng chuyển ra
ngoài thành phố trên đảo Manhattan. Người tị nạn đổ xô về mạn đông nam,
vào một khu vực rộng 1,5 dặm, bao quanh là đường Bowery, đại lộ số 3,
phố Catherine, phố số 14 và sông Đông. Ở đây, vào năm 1910, 540.000
người Do Thái bị nhét vào nơi được gọi là Nhà quả tạ, hình dáng do một
quy định của thành phố năm 1879 định đoạt khi yêu cầu các tòa nhà phải có
đường thông khí. Đây là các tòa nhà cao từ năm đến tám tầng, rộng 25 feet,
dài 100 feet, mỗi tầng có 14 phòng, chỉ một phòng có ánh sáng. Trái tim
của cộng đồng Do Thái New York là quận 10 vô cùng đông đúc, nơi 74.401
người sống trong 1.196 tòa nhà trải dài trên 46 khối phố (năm 1893). Điều
này có nghĩa mật độ dân số đạt 701,9 người trên một mẫu Anh. Đây cũng là
nơi xuất phát “nghề kim chỉ,” nghề mà hầu hết người nhập cư được thuê
vào làm, cắt may quần áo may sẵn, làm việc 70 tiếng một tuần, 12 người
trong một căn phòng bé xíu. Đến năm 1888, 234 trên tổng số 241 công ty
quần áo ở New York là công ty của người Do Thái; đến năm 1913, may
mặc là ngành công nghiệp lớn nhất của New York với 16.552 nhà máy, gần
như tất cả là của người Do Thái, thuê 312.245 nhân công.