cộng 300.000 người, vượt biên vào Ba Lan, các nước Baltic, Thổ Nhĩ Kỳ
và vùng Balkan.
Đúng là người Do Thái từng có vai trò quan trọng trong Đảng Bolshevik,
trong giới lãnh đạo chóp bu cũng như đảng viên: tại các đại hội đảng, 15-
20% đại biểu là người Do Thái. Nhưng đây là những người Do Thái phi Do
Thái; Đảng Bolshevik là đảng hậu Sa hoàng duy nhất có thái độ bất khoan
dung đối với các mục tiêu và lợi ích Do Thái. Quả thực, giới Do Thái bình
dân đã phải gánh chịu hậu quả do sự dính líu của người Do Thái với chế
độ. Những người Bolshevik Do Thái có số lượng đông đảo trong Cheka
(cảnh sát mật), giữ vai trò ủy viên, nhân viên thu thuế và công chức. Họ có
vai trò hàng đầu trong các đội do Lenin và Trotsky tổ chức để gom lúa của
cánh nông dân đang tích trữ. Tất cả những hoạt động này khiến họ bị căm
ghét. Do đó, như thường xảy ra trong lịch sử của mình, người Do Thái bị
tấn công vì các lý do đầy mâu thuẫn. Một mặt họ là “những kẻ thu tiền
phản xã hội,” mặt khác họ là “những Bolshevik.” Hồi năm 1922, có những
đe dọa rằng nếu các ủy viên lấy đồ trang trí bằng vàng từ các nhà thờ thì
“không một người Do Thái nào sẽ sống sót: chúng ta sẽ giết hết chúng
trong đêm.” Đám đông diễu khắp phố: “Đánh Do Thái, cứu nước Nga.”
Năm 1926, thậm chí đã xuất hiện trở lại các cáo buộc người Do Thái giết
người cho nghi lễ. Tuy nhiên, tài liệu lưu trữ cho thấy người Do Thái cũng
sợ chế độ: “họ sợ dân quân cũng như trước đây họ sợ cảnh sát Sa hoàng.”
Nỗi sợ các Xô Viết của người Do Thái hoàn toàn có căn cứ. Tháng 8 năm
1919, tất cả các cộng đồng tôn giáo Do Thái bị giải thể, tài sản của họ bị
trưng thu và đại đa số giáo đường bị đóng cửa vĩnh viễn. Việc học tiếng
Hebrew và xuất bản các tác phẩm thế tục bằng tiếng Hebrew bị cấm. In ấn
bằng tiếng Yiddish được cho phép, nhưng phải phiên âm, và văn hóa
Yiddish, tuy có lúc được chấp nhận, bị giám sát cẩn thận. Cơ quan giám sát
bao gồm các bộ phận đặc biệt về Do Thái, Yevsektsiya, lập ra trong các chi
nhánh của Đảng Cộng sản, do người Do Thái phi Do Thái điều hành, với
nhiệm vụ cụ thể là loại bỏ bất cứ dấu hiệu nào của “chủ nghĩa đặc thù văn