Nhưng đó là cho tương lai: trong cộng đồng Do Thái thời trung cổ, với sự
phổ biến rộng rãi quyền lực tôn giáo của nó, những dòng đối địch này có
thể cùng tồn tại. Trong một thế giới khắc nghiệt, người nghèo quay sang mê
tín và tín ngưỡng dân gian để tìm nguồn an ủi; người giàu, nếu họ có sức
mạnh trí óc thì tìm đến chủ nghĩa duy lý, nếu không thì tìm đến kabbalah
thần bí. Do Thái giáo có quá nhiều kẻ thù bên ngoài, nên không thể mạo
hiểm đánh cược chuyện hài hoà bên trong của mình bằng việc áp đặt một
sự đồng nhất mà không ai thực sự mong muốn. Quả thực, người ta có thể
coi Do Thái giáo thời trung cổ về cơ bản là một hệ thống được thiết kế để
đoàn kết các cộng đồng Do Thái với nhau khi đối mặt trước nhiều hiểm
hoạ: thảm hoạ kinh tế, dịch bệnh, cai trị độc đoán, nhất là sự tấn công của
hai tôn giáo đế quốc lớn.
Nhà nước, dù là Kitô giáo hay Hồi giáo, nhìn chung không phải là kẻ thù
chính. Thường thì nó là người bạn tốt nhất. Người Do Thái rất trung thành
với chính quyền được lập ra một cách hợp hiến, vì những lý do tôn giáo và
tư lợi thuần túy: họ là một nhóm thiểu số dựa vào người cai trị để được bảo
vệ. Tư liệu trong nhà kho những năm 1127-1131 cho thấy người Do Thái
đọc kinh cầu nguyện nơi công cộng cho các nhà cai trị Hồi giáo 200 năm
trước khi văn bản xuất hiện trong sách kinh Do Thái. Trái với các nguồn
Hồi giáo của cùng thời kỳ, nguồn này không cho thấy có sự chỉ trích chính
quyền. Người cai trị đáp lại: họ coi người Do Thái là một bộ phận rất tuân
thủ pháp luật và sản xuất ra nhiều của cải trong cộng đồng. Chính quyền
càng mạnh thì người Do Thái càng dễ được an toàn hơn. Rắc rối xảy đến ở
cả vùng Kitô giáo và Hồi giáo giữa những làn sóng nhiệt tình tôn giáo là
khi các tư tế chính thống lấn át cả người cai trị, hoặc tệ hơn, biến người cai
trị thành một người cải đạo nhiệt thành.
Người Do Thái không bao giờ có thể chắc chắn khi nào thì những khoảnh
khắc này sẽ tới. Họ chuẩn bị chống lại chúng. Họ đã tuyên bố từ bỏ kháng
cự bằng vũ lực từ thế kỷ 2, và không nối lại việc kháng cự đó cho tới tận