nào khác ngoài triết học của Spinoza.” Nhưng khi nói về ngươi Do Thái,
ông đơn giản chỉ khai thác một mạch điều tra: ông không đẩy truyền thống
duy lý của Maimonides đến kết luận logic của nó tới mức như ông đẩy nó
hoàn toàn ra khỏi Do Thái giáo.
Truyền thống phi duy lý vẫn còn đó. Nó đã chiến thắng trong thế kỷ 14.
Kabbalah của nó đã được đưa vào Do Thái giáo quy chuẩn. Nó đã nhận
một cú đấm sốc với sự bội giáo của Shabbetai Zevi. Chủ nghĩa Shabbetai
đã rút vào bí mật. Trò hề Jacob Frank cho thấy truyền thống này cũng có
thể đưa những người hăng hái và cứng đầu ra khỏi Do Thái giáo. Năng
lượng và sự nhiệt tình cảm xúc vốn nuôi dưỡng phong trào cứu thế trong
những năm 1660 vẫn còn. Không có cách nào để nó có thể được phép tự
thể hiện mình trong khi vẫn bị cột - dù chỉ lỏng lẻo - vào cỗ xe Do Thái
giáo hay sao?
Vào thế kỷ 18, vấn đề này không chỉ giới hạn trong Do Thái giáo. Cuộc
cách mạng khoa học, xảy ra trước cuộc cách mạng công nghiệp, đã diễn ra
từ năm 1700 rồi. Lý thuyết của Newton về một vũ trụ cơ học do các quy
luật toán học vững chắc chi phối đã chiến thắng. Ở trên đỉnh xã hội, chủ
nghĩa hoài nghi đang lan rộng. Các lãnh tụ tôn giáo có uy tín thì tỏ ra bình
thản, tự tin, từng trải, có xu hướng khoan dung vì không quá quan tâm đến
những chi tiết giáo lý nhỏ, vì chúng mà các bậc tiền bối của họ đã giết
người và bị giết. Nhưng dân chúng, những người có cuộc sống khó khăn,
lại cần hơn. Người ta đứng dậy để trao nó cho họ. Ở Đức có phong trào mộ
đạo. Ở Anh có anh em nhà Wesley và Hội Giám lý của họ. Ở Mỹ có phong
trào Đại Giác ngộ thứ nhất. Ở Đông Âu, nơi hơn một nửa dân số Do Thái
trên toàn thế giới sinh sống lúc bấy giờ, có phong trào mộ đạo Do Thái.
Lòng nhiệt thành mộ đạo của người Do Thái Ba Lan không chỉ là một thế
lực tôn giáo. Nó còn hàm ý cấp tiến. Xã hội Do Thái mang tính chuyên chế
và thường đàn áp. Nó được điều hành bởi một chính thể đầu sỏ liên minh
giữa các lái buôn giàu có và các luật sư-giáo sĩ. Hệ thống hội đồng mang lại