lại tạo ra một phản đề quỷ quyệt. Một mặt, theo bước Voltaire, phe tả châu
Âu đang lên bắt đầu coi người Do Thái là những đối thủ ngu dân chủ nghĩa
đối với mọi tiến bộ của con người. Mặt khác, các thế lực bảo thủ và truyền
thống, khó chịu trước những lợi ích mà người Do Thái có được từ sự sụp
đổ của trật tự cổ đại, bắt đầu mô tả người Do Thái là những kẻ đồng minh
và kích động tình trạng vô chính phủ. Cả hai đều không thể đúng. Cả hai
đều không đúng. Nhưng cả hai đều được người ta tin. Chuyện hoang đường
thứ hai được những nỗ lực thiện chí của Napoleon vô tình hỗ trợ nhằm tự
mình giải quyết “vấn đề Do Thái.” Tháng 5 năm 1806, ông ban hành sắc
lệnh triệu tập một Hội đồng các yếu nhân Do Thái trên toàn đế chế Pháp
(bao gồm cả vùng sông Rhine) và vương quốc Ý. Mục đích là để tạo ra một
mối quan hệ lâu dài giữa nhà nước mới và người Do Thái, tương tự như
những mối quan hệ mà ông đã có với người Công giáo và Tin Lành. Hội
đồng có 111 thành viên, được các lãnh đạo cộng đồng Do Thái bầu ra, họp
từ tháng 7 năm 1806 tới tháng 4 năm 1807, trả lời cho 12 câu hỏi mà giới
chức đặt ra cho họ, liên quan đến luật hôn nhân, thái độ của người Do Thái
đối với nhà nước, tổ chức nội bộ, và nghề cho vay nặng lãi. Trên cơ sở
những câu trả lời này, Napoleon thay thế tổ chức cộng đồng cũ bằng cái gọi
là thượng hội nghị tôn giáo, như một phần của đạo luật Do Thái chung,
điều tiết cách cư xử của những người giờ đây không được coi là người Do
Thái mà là “các công dân Pháp theo đức tin Moses.”
Theo tiêu chuẩn thời đó thì đây là sự tiến bộ, đại loại vậy. Thật không may,
Napoleon bổ sung cho Hội đồng thế tục này bằng cách triệu tập một cuộc
họp song song của các giáo sĩ và học giả, để cố vấn cho Hội đồng về các
điểm mang tính kỹ thuật của Torah và halakhah. Phản ứng của các thành
phần bảo thủ hơn trong Do Thái giáo không được tốt. Họ không công nhận
Napoleon có quyền lập ra một Hội đồng như vậy, nói gì đến chuyện triệu
tập nó. Dù vậy, các giáo sĩ và học giả vẫn họp, từ tháng 2 đến tháng 3 năm
1807, khá hoành tráng và với nghi lễ phù hợp. Hội đồng được đặt tên là
Sanhedrin.
Nó thu hút sự chú ý nhiều hơn so với cuộc họp nghiêm túc, thế
tục, và hằn sâu trong ký ức của châu Âu rất lâu sau khi chính sách Do Thái