kẻ thù mà còn (có lẽ nhất là) nhằm vào bạn bè và các nhà từ thiện. Đây là
một phần của sự căm thù bản thân mà họ chia sẻ với tư cách những người
Do Thái bội giáo. Marx căm thù bản thân còn lớn hơn Heine, ông tìm cách
xua đuổi Do Thái giáo ra khỏi cuộc đời mình. Trong khi Heine vô cùng lo
lắng trước những hành vi bạo tàn ở Damascus năm 1840, thì Marx trong
suốt cuộc đời mình lại cố tình không thể hiện sự quan tâm dù là nhỏ nhất
đối với bất cứ hành vi bất công nào mà người Do Thái phải chịu.
Mặc dù
Marx phớt lờ Do Thái giáo như vậy, song không có gì phải nghi ngờ về tính
chất Do Thái của ông. Giống Heine và mọi người khác, khái niệm của ông
về tiến bộ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hegel, nhưng khái niệm của ông về
lịch sử như một lực lượng tích cực và năng động trong xã hội loài người, do
các quy luật sắt đá chi phối, Torah của người vô thần, lại rất Do Thái. Kỷ
nguyên của ông có gốc rễ sâu xa trong khải huyền và thuyết cứu thế Do
Thái. Khái niệm của ông về cai trị là theo chế độ giáo sĩ trị. Việc kiểm soát
cách mạng sẽ nằm trong tay giới trí thức tinh hoa, là những người đã
nghiên cứu sách vở, hiểu biết quy luật của lịch sử. Họ sẽ hình thành cái mà
ông gọi là “giới quản lý,” ban giám đốc. Người vô sản, “người không có tài
sản,” đơn giản là phương tiện, nghĩa vụ của họ là tuân thủ - giống như Ezra
Thầy thông giáo, ông cho rằng họ không biết gì về pháp luật, đơn thuần là
“những con người của đất đai.”
Phương pháp luận của Marx cũng hoàn toàn mang tính giáo sĩ. Mọi kết
luận của ông đều đơn thuần bắt nguồn từ sách vở. Ông chưa bao giờ đặt
chân đến một nhà máy nào, ông từng từ chối đề nghị của Engels đưa ông
tới thăm một nhà máy. Giống như gaon xứ Vilna, ông tự nhốt mình cùng
sách vở và giải quyết những bí ẩn của vũ trụ trong phòng làm việc của
mình. Như lời ông nói, “Tôi là một cỗ máy bị kết tội ngấu nghiến sách.”
Ông gọi tác phẩm của mình là “khoa học” nhưng nó cũng mang tính thần
học. Ông xem xét bất cứ tư liệu hứa hẹn nào để cung cấp “bằng chứng” cho
những kết luận mà ông đã có sẵn trong đầu, những kết luận cũng như kết
luận của bất cứ giáo sĩ hay nhà kabbalah nào. Phương pháp của ông được
Karl Jaspers tóm tắt như sau: