Phong cách viết của Marx không phải là phong cách của nhà điều tra… ông không trích dẫn
ví dụ hay thực tế trái với giả thuyết của mình mà chỉ trích dẫn những gì rõ ràng ủng hộ hay
xác nhận cái mà ông coi là sự thật tối hậu. Toàn bộ cách tiếp cận này là cách tiếp cận chứng
minh chứ không phải điều tra, nhưng là chứng minh cái được tuyên bố là sự thật hoàn hảo với
Khi tách khỏi thứ tư liệu không xác thực, lý thuyết của Marx về cách thức
mà lịch sử, giai cấp, sản xuất vận hành và phát triển cơ bản không khác với
lý thuyết của kabbalah Luria về Kỷ nguyên Chúa cứu thế, nhất là khi nó
được Nathan xứ Gaza chỉnh sửa, tới mức có thể hóa giải được bất cứ thực
tế khó khăn nào. Tóm lại, đây là một lý thuyết mang tính tín ngưỡng Do
Thái thông minh.
Cuối cùng, Marx mãi là học trò giáo sĩ trong thái độ của ông đối với tiền
bạc. Ông muốn được cấp tiền cho việc nghiên cứu của mình, trước tiên là
bởi gia đình mình, sau đó là bởi Engels doanh nhân, như các bức thư
schnorrer
bắt nạt dài vô tận của ông đã cho thấy. Nhưng việc nghiên cứu
của ông, như rất nhiều giáo sĩ có học khác, không bao giờ kết thúc. Sau khi
xuất bản tập 1 bộ Tư bản, ông không thể nào viết các tập còn lại được, bản
thảo là một đống hoàn toàn lộn xộn, sau này Engels dùng để soạn ra tập 2
và tập 3. Nên tác phẩm chú giải vĩ đại về Quy luật của lịch sử kết thúc
trong phức tạp và nghi ngờ. Điều gì xảy ra khi Chúa cứu thế tới, khi
“những kẻ sung công bị sung công”? Marx không thể trả lời; ông không
biết. Nhưng ông tiên tri về cuộc cách mạng cứu thế: năm 1849, tháng 8
năm 1850, năm 1851, năm 1852, “từ tháng 11 năm 1852 đến tháng 2 năm
1853,” năm 1854, năm 1857, năm 1858, năm 1859.
ông, giống tác phẩm của Nathan xứ Gaza, về cơ bản là một lời giải thích
cho sự không đến.
Marx không chỉ là một nhà tư tưởng người Do Thái, ông còn là một nhà tư
tưởng bài Do Thái. Đó là nghịch lý có liên quan khá quan trọng với cả lịch
sử phát triển của chủ nghĩa Marx lẫn sự hiện thực hóa của nó tại Liên Xô