tục bị đánh. Tên Viđan tuyên bố với kíp đập đá: “Một nhát búa không vỡ
được hòn đá thì tụi bay vỡ đầu.”
Một kíp tù nhân khác phải đầm chà láng từ khu xà lim cuối sân dọc theo
dãy khám 10-9-8-7-6. Đầm láng sân phía trước xong, chúng bắt xới sân sau
lên đầm lại, cốt để hành hạ tù nhân chứ không chỉ là công việc khổ sai
thuần túy. Đầm nặng bảy kí lô, bảy chục con người phải đầm theo một
nhịp. Chệch choạc là ăn đòn. Đầm đi đầm lại, ngày này qua ngày khác. Chà
láng xong rồi lại xới lên, tưới nước, đầm lại. Không ai có thể tính được mỗi
thước sân nhà lao đã thấm bao nhiêu mồ hôi và máu của tù nhân.
Giờ tắm cũng được bọn gác ngục biến thành một kiểu hành hạ. Bảy chục
con người chỉ có một giếng nước và chỉ được tắm trong năm phút. Đúng
giờ, họ phải ào đến vây quanh giếng, người đứng, người khom, người ngồi,
người múc nước giội hối hả. Loáng một cái đã hết giờ. Bọn ác ôn vung gậy
xua họ ra khỏi giếng. Nhiều người nước chưa kịp thấm ướt thân thể mà
máu đã phun đỏ miệng giếng.
Bữa ăn của tù cũng là cảnh cực hình. Cơm gạo hẩm và lẫn nhiều thóc
sạn, ăn rát cả miệng. Cá khô mục đắng và mặn chát. Chỉ có 5 phút cho cả
việc ăn lẫn uống. Trong khi ở các khảm khác chúng bắt ăn cơm nguội, uống
nước lạnh thì kíp này lại phải ăn cơm nóng và uống nước sôi. Họ đã phải
làm cật lực, đẫm mồ hôi dưới nắng hè tháng 7, chịu khát cháy cổ. Vậy mà
đến bữa ăn, chúng lại đổ nước sôi vào khạp và bắt ăn uống trong vài phút.
Họ vây quanh khạp nước bốc hơi ngùn ngụt nên không thể nào uống được.
Có tù nhân đã chết khát một cách thương tâm.
Anh Quý bị đánh đập nhiều nên sức cùng, lực kiệt. Không chịu được
cách hành hạ trong bữa ăn như vậy, anh đành chịu khát vào khám. Đêm ấy
khát quá, anh thều thào bảo Nguyễn Văn Bảy, người bạn tù nằm cạnh đái
cho uống. Nhưng Bảy cũng đang khát khô cả họng và chẳng có được giọt
nước tiểu nào. Cả hai đều thiếp đi trong sự dày vò của cơn khát và nỗi bất
lực. Sáng ra, anh Quý đã chết khô cứng trong còng.