Từ năm 1959 trở đi, chúng còn cho công an, trật tự tra tấn, khủng bố
bằng những ngón đòn tàn bạo, truy bức trường kì cả thế xác lẫn tinh thần,
về chế độ ăn uống, đặc biệt là tù chính trị ở các lao cấm cố, có thế dẫn ra
đây một đoạn trong Luận án Tiến sĩ y khoa của bác sĩ Nguyễn Minh Triết
mang tên Nhận xét về bệnh lý tại một nhà lao:
“Thức ăn chính (của tù nhân) gồm:
– Gạo: xấu, lẫn nhiều tấm, thóc, sạn.
– Khô: thường là khô củ, mục đắng, gọi là khô kyninh.
– Mắm sặc: tương đối được ưa chuộng.
– Cá hộp: nội hóa, có khi bị hư, 5 người một hộp trong mỗi bữa ăn,
nhưng không phải là 5 món mà chỉ là gạo với một trong 5 thứ ấy.
– Cá tươi: hiếm, gần đây có một tàu đánh cá, lâu lâu cung cấp cho tù
nhân một số cá Xà, cá Mập, gây nhiều bệnh biến chứng, đặc biệt là bệnh
suyễn, nhưng tàu lại hay bị nằm ụ.
– Thịt: thật là hiếm, kể từ tháng 7-1968 đến tháng 11-1971 (40 tháng)
được ăn thịt có 6 lần.
– Rau: ít ỏi, chính là rau muống bón bằng phân người tươi, ở các lao cấm
cố, trước đây không được ăn rau, và chuyện bứt cỏ (cỏ thỏ, sam đất, mần
trầu) hay lá cây (lá bàng, lá phượng) để ăn là chuyện bình thường.
– Cầu tiêu: trong góc khám, lúc nhúc dòỉ. Trại nữ trước đây ở biệt lập I
và II, đi cầu vào thùng cây, đầy lại đổ ra các hố lộ thiên, ruồi nhặng khủng
khiếp. Muỗi rất nhiều”.
Ngoài việc đánh đập, tra tấn, hành hạ tại trại giam, tại nơi làm khố sai
hay ở Ban chuyên môn với những ngón đòn hiểm độc gấp nhiều lần thời
Pháp, Mỹ ngụy còn tổ chức những chiến dịch lớn, đưa lực lượng chống
cộng sừng sỏ và cảnh sát dã chiến ở Sài Gòn ra, sử dụng lựu đạn cay và các
phương tiện chống bạo động để đàn áp tù nhân khi cần thiết.
Việc phân loại tù nhân, áp dụng các chế độ giam giữ, chế độ kỷ luật,
cưỡng bức khổ sai, đàn áp và khủng bố nhằm mục đích đày đọa, làm kiệt