Giải phóng Nhà tù Côn Đảo
Tháng 3-1975, khi chiến dịch Tây Nguyên mở màn cho cuộc Tống tiến
công mùa xuân 1975 thì Mỹ - ngụy tăng cường phòng thủ Côn Đảo. Chúng
sửa lại con đường từ thị trấn qua Hàng Dương lên Sở Tiêu. Từ con đường
bọc sau lưng suốt 8 trại này, địch mở thêm 2 nhánh nữa, một nhánh chạy
thẳng vào khu vực Trại VI, Trai VII, Trại VIII, một nhánh vào khu vực Trại
I, Trại IV, Trại V. Với hệ thống dường này, địch có thể khống chế các trại từ
phía chân núi. Trong trường hợp tù nhân nổi dậy, chúng có thế cơ động lực
lượng và bố trí hỏa lực đàn áp, hất lực lượng nổi dậy ra phía biển và nhanh
chóng tiêu diệt.
Tháng 4-1975, Nhà tù Côn Đảo có 7.448 tù nhân, trong đó có 4.234 tù
chính trị (494 phụ nữ), còn 3.214 là tù thường phạm, quân phạm. Trong số
4.234 tù chính trị, có 2.488 người đang chịu chế độ cấm cố ở Trại I, Trại V,
Trại VI và Trại VII. Những người này đã chống chào cờ ngụy, chống học tố
cộng, chống nội quy nhà tù từ nhiều năm trước, 1.746 người còn lại chịu
làm khổ sai chung với tù thường phạm ở Trại II và Trại III.
Bộ máy kìm kẹp của địch gồm một tiểu đoàn bảo an (khoảng trên 500
tên), một Đại đội cảnh sát (gần 100 tên), 89 giám thị, 130 công chức và gần
1.000 trật tự an ninh được tuyển chọn trong số tù thường phạm, quân phạm
lưu manh nhất, tất cả khoảng 2.000 tên. Như vậy, cứ hơn 2 tù chính trị thì
có một tên trong bộ máy kìm kẹp. Đó là chưa kế đến hệ thống trại giam
kiên cố, hệ thống khu kỷ luật với 20 hầm đá (Trại II), 14 xà lim (Trại III),
31 phòng biệt giam (chuồng bò) 384 chuồng cọp Mỹ (Trại VII) và một số
xà lim, hầm tối ở Trại I, Trại V và Trại VI (chuồng cọp Pháp đã bị phá bỏ
từ năm 1970); cũng chưa kể đến nội quy khắc nghiệt của nhà tù, sẵn sàng
cấm cố biệt lập tất cả những ai chống đối.
Trước ngày giải phóng, 58,7% tù chính trị đang ở trong các trại cấm cố.
Hiếm có một nơi nào trong đất liền lại có điều kiện bảo vệ an ninh cho