Công nghiệp hóa học mới ra đời, phát triển rất nhanh, phục vụ cho ngành
nhuộm, phân bón và thuốc nổ.
Cùng với công nghiệp, ngành giao thông vận tải tiến bộ nhanh chóng:
trong 40 năm, chiều dài đường sắt toàn thế giới tăng lên 4 lần. Trên đường
biển, tàu biển sử dụng tuyếcbin, chạy bằng sức nước hay động cơ nổ thay
thế cho thuyền buồm. Các phương tiện liên lạc như điện báo, điện thoại
ngày càng được hoàn thiện. Phát minh đặc biệt quan trọng là sự sáng chế
rađiô và phát triển thành ngành liên lạc vô tuyến điện.
Những tiến bộ kỹ thuật trên đã thúc đẩy nền sản xuất phát triển nhanh
chóng, đánh dấu một bước tiến mới cực kỳ quan trọng.
2. Sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản
Sự phát triển nhanh chóng của sản xuất công nghiệp đã làm thay đổi
vai trò và tỉ trọng sản phẩm của mỗi nước trong nền kinh tế thế giới. Tính
chất phát triển không đồng đều bộc lộ rõ rệt: nhịp độ công nghiệp nặng tiến
triển rất nhanh so với công nghiệp nhẹ, nông nghiệp lại càng lạc hậu so với
công nghiệp. Những cuộc khủng hoảng nông nghiệp diễn ra liên tiếp trong
những năm 70 - 90 do việc lúa mì rẻ của Mỹ tràn vào châu Âu, chế độ
ruộng đất duy trì nhiều tàn dư phong kiến, việc giảm địa tô vẫn còn chậm
chạp và không đầy đủ. Tuy nhiên, sự tăng dân số thành thị dẫn đến nhu cầu
to lớn về nông sản phẩm, việc áp dụng máy móc và phân bón hóa học,
những biện pháp thâm canh… đã khắc phục dần tình trạng khủng hoảng và
không cân đối trong từng thời kỳ một.
Nhịp độ phát triển công nghiệp giữa các nước tư bản chênh lệch rất rõ:
trong thời kỳ 1871-1900, sản xuất gang ở Anh tăng 1/3 trong khi Đức tăng
5 lần rưỡi và Mỹ tăng 8 lần. Nhưng cùng lúc đó. Mỹ và Đức còn thua kém
Anh về mặt đóng tàu, dệt vải… Do đó, vị trí của mỗi nước trong nền sản
xuất thế giới thay đổi. Anh mất dẫn địa vị độc quyền về công nghiệp.
Những đế quốc “trẻ” như Mỹ và Đức vươn lên hàng thứ nhất và thứ hai.