sự nhằm xây dựng một đội quân hiện đại, thống nhất và phục vụ mục tiêu
vì Nhật Hoàng, vì Nhật Bản.
2. Chính sách đối ngoại :
Chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong thời kỳ đầu là giành quyền
bình đẳng, xóa bỏ những điều ước thua thiệt đã ký với các nước tư bản
phương Tây. Việc này phải đến sau chiến tranh Nhật-Trung (1894-1895) và
đặc biệt sau chiến tranh Nhật-Nga (1904-1905), Nhật Bản mới được coi là
một cường quốc có vị thế ngang tầm các nước tư bản khác.
Nước Nhật đã tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược :
- Chiến tranh Đài Loan 1874 - Chiến tranh Nhật-Trung 1894-1895.
- Chiến tranh Nhật-Nga 1904-1905 .
Các cuộc chiến tranh đã tỏ rõ sức mạnh của nước Nhật sau một thời kỳ
quý tộc tư sản hóa và giai cấp tư sản liên kết với nhau trong việc củng cố và
mở rộng quyền lực. Để thực hiện mục tiêu tiến hành những cuộc chiến
tranh ra bên ngoài, chính phủ đã chú trọng phát triển kinh tế công nghiệp
quân sự, xây dựng quân đội hiện đại và xác định đường lối chiến tranh xâm
lược.
3.Phong trào dân quyền và tự do
Chính quyền Minh Trị đã xác định học tập phương Tây về mọi mặt, về
kinh tế kỹ thuật và tư tưởng văn hóa.
Năm 1871 một phái đoàn Nhật Bản do đại thần Iwakura Tomoni dẫn
đầu đã đến thăm và học hỏi 12 nước Âu Mỹ, đã nghiên cứu thể chế chính
trị, hiến pháp của các nước đó.
Người tuyên truyền tư tưởng tự do phương Tây là Fukuzawa Yukichi
(1835-1901). Trong tác phẩm Khuyến học xuất bản năm 1872-1876, Ông
khẳng định con người sinh ra phải được bình đẳng, sự khác biệt là do học
vấn và trình độ khác nhau, ông chống việc học chỉ thuộc dẫn kinh viện một
cách vô ích, mà nhấn mạnh việc học phải suy nghĩ, phải có mục đích vì tiến