xâm lược làm cho nhân dân hiểu rằng “không thể chờ quan binh”, “quân
giặc không đáng sợ”. Nhân dân vùng Tam Nguyên Lí đã tổng kết hiện thực
lúc bấy giờ trong câu ca hài hước của mình “Dân sợ quan, quan sợ giặc,
giặc sợ dân”.
Bọn xâm lược Anh sau đòn choáng váng ở Tam Nguyên Lí, lại thêm
tình hình Quảng Châu không an toàn, nên tháng 6 năm đó, buộc phải kéo
về Hổ Môn.
4. Thực dân Anh mở rộng chiến tranh xâm lược và điều ước
Nam Kinh
Tháng 4-1841 Chính phủ Luân Đôn nhận được bản dự thảo điều ước
Xuyên Ti. Nhưng tư bản Anh không vừa lòng vì việc cắt Hương Cảng chưa
được Mãn Thanh đồng ý, tiền bồi thường thuốc phiện chưa đủ, khoản bồi
thường chiến phí chưa có, nên chính phủ không phê chuẩn. Để mở rộng
chiến tranh, chính phủ Anh cử Pôtinhgơ, tên đao phủ đã từng khét tiếng ở
Ấn Độ sang chỉ huy cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc.
Ngày 26-8, bọn chúng đánh chiếm Hạ Môn, sau đó chiếm Định Hải,
Ninh Ba.
Tháng 6-1842 quân Anh tấn công cửa Ngô Tùng, sau khi nhận được
tiếp viện hơn 100 chiến thuyền và hơn 1 vạn quân từ Ấn Độ đến. Với đa số
áp đảo, súng đạn kỹ thuật đều vượt xa, chúng đã tiêu diệt toàn bộ quân
Trung Quốc ở Ngô Tùng. Sau đó, Thượng Hải và Bảo Sơn đều bị chiếm.
Quân Anh tiến vào bắn phá Trấn Giang và khống chế vùng hạ lưu quan
trọng của Trường Giang. Đến đây, triều đình Mãn Thanh như đã bó tay,
chuẩn bị đầu hàng, chấp nhận mọi yêu cầu của kẻ địch.
Đầu tháng 8, hạm thuyền của quân Anh vào Nam Kinh. Triều đình
Mãn Thanh vội vàng phái đại thần đi điều đình. Ngày 29-8-1842 hiệp ước
Nam Kinh được ký kết. Mãn Thanh nhận tất cả điều khoản yêu cầu của
thực dân Anh.