Thực dân Hà Lan dùng chính sách khuyến khích tầng lớp quan lại địa
chủ, ban cho một số quyền lợi để bọn này cưỡng ép và giám sát nông dân.
Nhiều lãnh chúa phong kiến được khôi phục các tước hiệu cũ, được hưởng
một tỉ lệ nhất định trong số thu nhập về trồng trọt, được quyền thế tập và
quyền sử dụng đất đai vĩnh viễn. Cho nên, bọn thống trị người địa phương
ra sức câu kết với thực dân bóp nặn nông dân.
Chính sách trên làm cho đời sống nông dân vô cùng điêu đứng. Ngoài
nghĩa vụ lao động trồng trọt, nông dân còn phải lao dịch đắp đường, sửa
cầu, xây dựng đồn lũy. Bộ máy hành chính của công xã nông thôn hoàn
toàn trở thành cơ quan tiếp tay bóc lột nhân dân của bọn thực dân Hà Lan.
Nếu chế độ cưỡng bức trồng trọt của Vanđen Bốt đối với nông dân là
một tai họa thì trái lại, đối với thực dân Hà Lan lại là một biện pháp cứu
vãn tốt. Nhờ có chính sách này, Hà Lan thu được lợi nhuận kếch sù. Không
những có thể trang trải xong công nợ, mà còn có một số vốn lớn để phát
triển công nghiệp. Chỉ trong 10 năm đầu, chế độ cưỡng bức trồng trọt đã
cho Hà Lan có nhiều hàng xuất khẩu có giá trị. Trong 40 năm thi hành
chính sách này, (1830-1870), thực dân Hà Lan đã thu được món lợi nhuận
nhiều bằng số thu nhập của Công ty trong 200 năm. Nhờ có số tiền này, Hà
Lan đã có thể phát triển công nghiệp trong nước, đồng thời có khả năng đầu
tư xây dựng và khai thác ngay trên đất Inđônêxia. Nhưng chế độ cưỡng bức
trồng trọt dần dần trở thành trở ngại đối với sự phát triển chủ nghĩa tư bản
Hà Lan. Công nghiệp Hà Lan đang phát triển đòi hỏi thị trường tiêu thụ,
nhưng sức mua của nông dân Inđônêxia thì quá kém vì bị bóc lột tàn nhẫn.
III. CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA ĐIPPÔNÊGÔRÔ
VÀ CUỘC CHIẾN ĐẤU DŨNG CẢM CỦA
NHÂN DÂN ACHÊ
1. Cuộc khởi nghĩa của Đippônêgôrô (1825-1830)