lột tàn bạo của bọn thực dân tư bản tạo nên hàng ngàn vạn quần chúng vô
sản hóa, biến họ thành nguồn nhân công rẻ mạt của chủ nghĩa tư bản.
Để có thể vơ vét tài nguyên ngày càng nhiều, thực dân Anh từ năm
1885 bắt đầu xây dựng đường sắt từ Taiping đến Oenđơ và sau đó ở ven
biển phía Tây. Nhiều đường sắt nối liền các cảng với trung tâm mỏ thiếc
chạy từ Bắc tới Nam, đến năm 1909, kéo dài đến Xingapo. Đường giao
thông ở Mã Lai phát triển một cách nhanh chóng nhằm chuyển nhanh tài
nguyên từ các hầm mỏ, đồn điền cao su đến các cảng để bán ra thị trường
thế giới .
Mã Lai vốn giàu nguyên liệu nhưng tư bản Anh lại muốn biến bán đảo
này thành khu kinh tế nông nghiệp và vùng mỏ phụ thuộc vào guồng máy
công nghiệp Anh. Chính vì vậy, ngoài một số xưởng máy gia công, sửa
chữa hay phục vụ cho cuộc sống của bộ máy thống trị, thì không có một
nhà máy lớn nào. Lớn nhất là xưởng sửa chữa tàu và xưởng luyện thiếc ở
Xingapo.
Tất cả nền công nghiệp và nông nghiệp Mã Lai phát triển theo chiều
hướng phụ thuộc. Nền công nghiệp què quặt và nông nghiệp chuyên sản
xuất nguyên liệu cùng với chế độ độc quyền kinh doanh làm cho kinh tế
Mã Lai lệ thuộc hoàn toàn vào chủ nghĩa tư bản Anh. Chúng lũng đoạn nền
kinh tế Mã Lai từ khâu sản xuất đến khâu vận chuyển, từ chính sách thuế
má trong nước đến việc xuất khẩu. Chúng biến Mã Lai thành một mảnh đất
riêng của chúng.
Thực dân Anh còn nắm các nguồn tài chính và ngân hàng. Những
ngân hàng đầu tiên lập ra năm 1889 ở Pêrắc, sau đó nhiều chi nhánh xuất
hiện ở các địa phương đều ở trong tay tư bản Anh.
III. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN
DÂN MÃ LAI