Do tinh thần phản kháng mạnh mẽ của nhân dân nên thực dân Anh
phải mất đến 8 năm và chịu nhiều tổn thất nặng nề mới đặt được ách thống
trị ở Hạ Miến. Cuộc kháng chiến của nhân dân Hạ Miến là một trong những
trang sử vẻ vang, góp phần làm cho việc thôn tính thượng Miến của thực
dân Anh bị hoãn lại một thời gian dài.
3. Cuộc chiến tranh xâm lược Miến Điện lần thứ ba (1885)
Trong khi chưa chiếm được Thượng Miến, quân Anh đã bắt vua Miến
phải ký các hiệp ước nô dịch như cho Anh quyền buôn bán tự do ở vùng
này, thuế quan hạ 5% so với giá hàng, đại diện Anh và quân lính Anh được
đến đóng ở thủ đô Mađalai và thành phố thương mại Bamô giáp Trung
Quốc. Thượng Miến ở trong tình thế bị bao vây và cô lập. Thượng Miến có
một vị trí quan trọng đối với đế quốc Anh. Chúng coi nơi đây là nơi có thể
khai thác các nguyên liệu quý (đặc biệt là gỗ tếch và dầu lửa), tiếu thụ hàng
hóa và là khu vực đầu tư. Chiếm được Thượng Miến, đế quốc Anh có thể
xâm nhập vào Trung Quốc bằng con đường từ phía tây nam.
Các đế quốc khác như Mỹ, Ý, Đức và đặc biệt là Pháp cũng tích cực
tìm cách nô dịch phần đất này của Miến Điện. Mỹ, Ý, và Đức đã bắt vua
Miến ký những hiệp ước thương mại có lợi cho chúng. Nhưng Pháp giành
được ưu thế hơn vì vua Miến có ý định dựa vào Pháp để ngăn chặn bàn tay
xâm lược của Anh. Sau nhiều lần đàm phán, năm 1885 Hiệp ước Pháp-
Miến được ký kết. Theo đó, Pháp có quyền tối huệ quốc và quyền lãnh sự
tài phán, công dân Pháp có quyền kinh doanh công thương nghiệp, hạ thấp
thuế quan đánh vào hàng Pháp… Hai hiệp định mật khác cho phép Pháp có
nhượng địa làm đường sắt, lập đội thương thuyền trên sông Iraoađi, lập nhà
băng, khai thác mỏ. Pháp nhận Miến Điện là “nước trung lập” dưới sự bảo
hộ của Pháp, Ý, Đức; Pháp cũng hứa giúp vũ khí cho Miến Điện.
Đế quốc Anh theo dõi diễn biến của tình hình trên với một vẻ lo ngại
đặc biệt vì sợ rằng Thượng Miến sẽ rơi vào tay Pháp. Trong khi Pháp còn
lo đối phó với tình hình phức tạp ở Việt Nam và Mađagátxca, Anh quyết