định hành động ngay. Nhân việc triều đình Miến Điện phạt Công ty Anh về
tội lậu thuế (chuyển 8 vạn cây gỗ ra ngoài mà chỉ báo 3 vạn cây). Phó
vương Anh ở Ấn Độ lập tức gửi tối hậu thư đòi phải để nhà cầm quyền Anh
tham gia giải quyết vụ án, phải để quân Anh đến đóng ở Manđalai, phải
trao quyền ngoại giao cho Anh và nếu 7 ngày sau vua Miến không trả lời
thì Anh “tự do hành động”. Triều đình sợ xẩy ra chuyện lôi thôi, quyết định
rút vụ án. Nhưng không kịp, tiếng súng xâm lăng đã nổ. Chỉ 2 tuần sau khi
chiến tranh bùng nổ (11-1885) thủ đô Miến là Manđalai bị chiếm. Vua cuối
cùng của Miến Điện là Tibao (1879-1885) bị đày sang Cancútta. Ngày 1-1-
1886 Phó vương Ấn Độ tuyên bố sáp nhập Miến Điện vào Ấn Độ như là
một tỉnh “thuộc địa của thuộc địa”.
Như vậy là công cuộc chinh phục Miến Điện của thực dân Anh đã
hoàn thành. Để làm việc đó, thực dân Anh đã phải mất hơn 60 năm (1824-
1885).
Sau khi thủ đô thất thủ, một phong trào kháng chiến mạnh mẽ của
nhân dân bùng nổ, kéo dài hơn 10 năm (1885-1896). Cuộc kháng chiến
mang tính chất nhân dân, động lực chính là nông dân. Phong trào có quy
mô rộng lớn nhất vào những năm 1886-1889. Các đội du kích được thành
lập, tấn công vào mọi nơi có quân địch cư trú, cắt đứt điện thoại, phá hoại
đường giao thông của chúng. Để đàn áp nghĩa quân, địch đã phải tăng quân
gấp 4 lần, đến 35.000 tên. Một số lãnh tụ nghĩa quân nổi tiếng được sự ủng
hộ hết lòng của nhân dân như Sơve lan, Bôtrô, Mêung, Ieng… Lửa chiến
tranh du kích bùng cháy không những ở vùng trung tâm của đất nước mà
còn ở các vùng núi, vùng biên cương - nơi cư trú của các dân tộc ít người.
Người Chin và Cachin ở phía tây và phía bắc Miến Điện chống quân Anh
cho đến năm 1896. Người Caren ở phía đông và phía nam phối hợp hành
động. Người San ở phía bắc cầm vũ khí đứng dậy chống quân Anh. Ở Hạ
Miến, người Môn cũng nổi dậy. Nghĩa quân ở đây đã đuổi được quân Anh
ra khỏi các thành phố như Pêgu, Xittang, Bilin… và một số vùng nông
thôn.