được những thành tựu về kinh tế rất to lớn. Đến những năm 30-40 của thế
kỷ XIX, nước Anh trở thành một trung tâm công nghiệp của thế giới và
đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa cao với nền đại sản xuất cơ khí
vào những năm 50 và 60. Chủ nghĩa tư bản Pháp cũng giành được những
thắng lợi đáng kể, đưa nước Pháp lên địa vị hàng đầu của lục địa. Song ở
đây, thời gian bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp muộn hơn và tốc độ
chuyển biến chậm hơn Anh. Nền công nghiệp ở Đức cũng phát triển rõ rệt
đặc biệt là công nghiệp than và luyện kim ở vùng Ranh Vétxphalen, công
nghiệp bông sợi ở Sơlêdiên và Dăcden. Nhiều trung tâm công nghiệp ra đời
với những xí nghiệp chế tạo lớn. Nhưng nói chung, đó mới là những bước
chuyển biến đầu tiên vì lực lượng sản xuất mới còn bị kìm hãm bởi quan hệ
sản xuất nửa phong kiến và tình trạng phân cắt chính trị. Hà Lan, Bắc Mỹ
và ngay cả các vùng tương đối chậm phát triển như Tiệp, Áo, Hung. Ý…
đều có những bước tiến rõ rệt trong nền kinh tế công nghiệp.
Sự phát triển đó đem lại kết quả tất nhiên là xác lập sự thống trị của
chủ nghĩa tư bản trong các nước đã trải qua cuộc cách mạng xã hội, hoặc ít
ra, cũng tạo nên những tiền đề cần thiết cho sự thắng lợi của giai cấp tư sản
đối với chế độ phong kiến trong một khoảng thời gian không xa nữa. Trên
cơ sở đó, đến những năm 50-60 của thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công
nghiệp căn bản hoàn thành trên hầu hết các quốc gia phát triển của châu Âu
và Bắc Mỹ. Đồng thời, bộ mặt các thành thị cũng thay đổi bởi những xí
nghiệp hiện đại trang bị bằng máy móc và tập trung hàng ngàn vạn công
nhân. Những đường giao thông chằng chịt nối liền các trung tâm với nhau,
xóa bỏ sự ngăn cách lâu đời giữa các vùng. Nhưng cảnh phồn thịnh đó lại
bị chi phối bởi quy luật giá trị thặng dư, quy luật lợi nhuận khiến cho người
công nhân thực sự trở thành món hàng của nhà tư bản bị bóc lột hơn bao
giờ hết, Cảnh tương phản giữa khu tư sản sang trọng, lộng lẫy với khu công
nhân tối tăm, lụp xụp bộc lộ ngày càng rõ nét. Cuộc cách mạng công
nghiệp làm cho số công nhân ngày một đông đảo và tập trung nhưng không
cải thiện đời sống cho họ. Tình cảnh của họ tồi tệ và sa sút. Ngày lao động
của công nhân kéo dài từ 12 đến 16 giờ và chỉ được lĩnh đồng lương chết