Trong chính sách đối ngoại, Chính phủ cũng thi hành nhiều biện pháp
phản động: không chịu ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước,
ngăn cản sự thống nhất nước Ý và nước Đức, tìm mọi cách thân thiện với
chính phủ Sa hoàng và chính phủ tư sản Anh.
Tuy nhiên, trong thời gian này, giai cấp công nhân cũng giành được
một số cải cách dân chủ nhất định, Sắc lệnh ngày 2-3 quy định ngày làm
việc rút xuống 10 giờ ở Pari và 11 giờ ở các tỉnh. Quyền tuyển cử phổ
thông cho nam giới đến 21 tuổi được thực hiện. Sự bãi bỏ thuế tem đánh
vào báo chí làm cho các tờ báo có khuynh hướng dân chủ được xuất bản và
lưu hành rộng rãi. Quyền tự do hội họp và lập hội được ban hành làm nảy
sinh nhiều hội và câu lạc bộ dân chủ. Riêng mùa xuân 1848 ở Pari đã có
gần 30 câu lạc bộ, tổ chức theo tính chất nghề nghiệp hoặc liên hiệp theo
các khuynh hướng chính trị. Ngày 27-4, Chính phủ ra sắc lệnh thủ tiêu chế
độ nô lệ da đen ở các thuộc địa Pháp.
II - THÀNH LẬP CHẾ ĐỘ CỘNG HÒA VÀ
CUỘC KHỞI NGHĨA THÁNG SÁU
1. Quốc hội lập hiến
Sau một thời gian dài đấu tranh xoay quanh vấn đề bầu cử, ngày 4-5-
1848, Quốc hội lập hiến khai mạc, mở đầu thời kỳ thành lập, xây dựng nền
Cộng hòa tư sản.
Tổng số đại biểu trong quốc hội là 880, trong đó, chiếm đa số và có
thế lực nhất là phái Cộng hòa cánh hữu, còn gọi là “Cộng hòa tam tài”
hay “Cộng hòa thuần túy” 550 ghế. Bọn bảo hoàng thuộc hai dòng
Buốcbông và Oóclêăng chiếm 212 ghẽ. Phái Bônapactơ chiếm một địa vị
không đáng kể. Những người dân chủ tiểu tư sản chiếm 80 ghế. Còn công
nhân chỉ có 18 ghế.
Quốc hội lập hiến thành lập một chính phủ gọi là ủy ban chấp hành.
Các bộ trưởng xã hội chủ nghĩa bị gạt ra ngoài, Chiếm đa số trong ủy ban là