Mặc dầu công nghiệp phát triển nhanh chóng, thủ công nghiệp ở Đức
vẫn còn ở quy mô lớn. Sự tồn tại của công nghiệp gia đình vẫn còn khá phổ
biến.
17 trong số 16 triệu cư dân sống ở nông thôn. Chỉ có 12 trong số 984
thành phố có số dân trên 100 ngàn mà trong đó tỷ lệ người làm công
nghiệp chỉ trong khoảng 10 - 20%.
Một vấn đề quan trọng mà cách mạng chưa giải quyết được là vấn đề
nông dân. Chính phủ ban bố đạo luật về “giải quyết quan hệ giữa quý tộc
và nông dân” (3-1850) hủy bỏ chừng hai mươi loại nghĩa vụ phong kiến
phụ là những điều thực ra đã không tồn tại từ lâu rồi. Tất cả những nghĩa vụ
phong kiến cơ bản vẫn duy trì. Nông dân phải bỏ ra nhiều tiền chuộc mới
được giải phóng khỏi chế đó lao dịch và các nghĩa vụ phong kiến khác.
Năm 1851 lại ban hành “quy tắc về tiền công trong nông nghiệp” quy định
phạt tù bất cứ tá điền nào có ý định đình công. Bọn địa chủ quý tộc có cảnh
binh riêng, có thể tùy ý ra lệnh bắt giam bất cứ nông dân nào. Vì phải nộp
tiền chuộc nên nông dân bị phá sản, bần cùng hóa. Còn địa chủ quý tộc thì
nhờ những đạo luật đó mà làm giàu thêm. Sau năm 1850, giá lúa mì lên cao
vì công nghiệp và các thành thị phát triển nhanh chóng làm cho nhiều quý
tộc địa chủ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, dùng máy
móc, thuê mướn lao động, đẩy mạnh khai khẩn v.v… Nhiều địa chủ đã có
cối xay chạy bằng hơi nước, nhà máy rượu… Một vài địa chủ còn làm chủ
lò luyện kim, lò đúc gang. Phương thức kinh doanh mới tạo nên tầng lớp
quý tộc tư sản hóa gọi là gioongke.
Đó là con đường phát triển tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp ở Phổ:
trong khi đưa nông nghiệp đi theo chủ nghĩa tư bản thì vẫn duy trì tàn tích
của chế độ bóc lột phong kiến.
Lênin gọi con đường đó là “con đường kiểu Phổ”.
Sự phát triển của công thương nghiệp và của chủ nghĩa tư bản trong
nông nghiệp gặp trở ngại lớn là tình trạng phân tán của nước Đức. Việc