là bảo vệ và ủng hộ chủ nghĩa tư bản, chỉ muốn quét khỏi chế độ đó những
cái “không tốt”, xây dựng cái “tốt” nhằm duy trì vĩnh viễn chế độ tiểu tư
hữu. Vì vậy, phái Pruđông chủ trương giải quyết những vấn đề xã hội theo
con đường hòa bình dựa vào những biện pháp kinh tế thuần túy trong phạm
vi sản xuất, hợp tác xã và trao đổi nhỏ, phủ nhận đấu tranh chính trị và mọi
hình thái nhà nước, kể cả chuyên chính vô sản. Học thuyết Pruđông có ảnh
hưởng nhiều ở Pháp, Bỉ, Ý… là nơi nền tiểu sản xuất còn chiếm ưu thế.
Đấu tranh loại trừ ảnh hưởng của chủ nghĩa Pruđông là yêu cầu cấp thiết
nhằm nâng cao ý thức giác ngộ và khả năng tổ chức của giai cấp công
nhân.
Đại hội lần I họp ở Giơnevơ từ ngày 3 đến ngày 8-9-1866, có 60
người đại diện cho 25 chi bộ.
Về vấn đề kinh tế - xã hội, phái Pruđông phản đối yêu sách của công
nhân đòi ngày làm 8 giờ và hạn chế ngày lao động trẻ em vì họ cho rằng đó
là quan hệ riêng tư đã được thỏa thuận trong những hợp đồng giữa chủ và
thợ. Họ phản đối yêu sách đòi bảo vệ lao động của phụ nữ vì cho rằng chức
năng phụ nữ chỉ là trông nom bếp núc, nhà cửa mà thôi. Những người
mácxít đã thông qua nghị quyết đòi bắt buộc phải hạn chế ngày lao động
đối với công nhân, nhất là đối với trẻ em, về chế độ làm đêm của phụ nữ,
đòi phải giáo dục phổ thông và nghề nghiệp cho công nhân, bảo vệ lao
động của phụ nữ; xóa bỏ các thứ thuế gián tiếp, đòi vũ trang toàn dân.
Về vấn đề công đoàn, Đại hội kiên quyết chống lại những luận điệu
của phái Pruđông chủ trương bãi bỏ mọi hình thức tổ chức của công nhân
và thông qua nghị quyết nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của công đoàn.
Nghị quyết nhấn mạnh rằng công đoàn trở thành cần thiết cho cuộc đấu
tranh giữa tư bản và lao động, và có vai trò hết sức quan trọng với tư cách
là một đoàn thể có tổ chức để đẩy mạnh việc thủ tiêu chế độ lao động làm
thuê. Việc thông qua nghị quyết về công đoàn là một thắng lợi lớn của
những người mácxít không những đối với phái Pruđông mà cả với phái
Látxan ở Đức và bọn lãnh tụ công đoàn ở Anh.