tầng lớp nhà giàu, quý tộc ở trong nước mà còn là món hàng hấp dẫn trên
thị trường thế giới. Trong ngành công nghiệp của Trung Quốc đã xuất hiện
hiện tượng làm thuê. Công trường thủ công tập trung và phân tán đã mọc
lên ở nhiều nơi. Quy mô sản xuất lớn hơn, kỹ thuật sản xuất cũng khá hơn.
Các ngành công nghiệp lớn như khai thác mỏ hầu hết đều do chính phủ
quản lý. Nhân công ở các mỏ, một số là tù nhân, một số là nông dân không
kế sinh sống buộc phải lao động làm thuê để khỏi chết đói. Những vùng mỏ
đồng, sắt, than ở Tứ Xuyên, Quảng Đông, Thiểm Tây, Sơn Tây, Giang
Tây… có hàng ngàn công nhân. Chế độ lao động làm thuê trong các công
trường nhà nước phong kiến cũng xuất hiện.
Cùng với công nghiệp, những trung tâm buôn bán đã hình thành và
phát triển. Trong các sách lúc bấy giờ còn ghi lại tình hình buôn bán sầm
uất của các thị trấn, thành phố lớn như Trấn Phật Sơn, Quảng Đông, Hán
Khẩu, Hàng Châu, Thiên Tân, Ninh Ba, Phúc Kiến… Câu ca “Sắt thép Phật
Sơn bán buôn khắp chốn”, “Buôn bán sầm uất thứ nhất Tô Châu”, “Lụa
Hàng Châu, sứ mầu Giang Tây”… phản ánh sự phát triển của thương
nghiệp cuối đời Mãn Thanh ở Trung Quốc.
Đồng thời, Trung Quốc đã buôn bán với các nước phương Tây, đặc
biệt là với các nước vùng Đông Nam Á, Triều Tiên, Nhật Bản…
Năm 1820, thuyền buôn của Trung Quốc đến các nước Đông Nam Á
có tới 295 chiếc, sức chở tới 85.200 tấn.
Năm 1789, thuyền ngoại quốc, đến Quảng Châu có tới 86 chiếc (trong
đó
Anh 61, Mỹ 15, Bồ Đào Nha 3, Hà Lan 5, Đan Mạch 1, Pháp 1). Năm
1833-
1834 số thuyền buôn nước ngoài đến Quảng Châu tới 213 chiếc (trong
đó Anh 101, Mỹ 70, Bồ Đào Nha 23, Pháp 6, Hà Lan 6, Đan Mạch 6, Thụy
Điển 1). Thuyền buôn ngoại quốc đến mua chè, tơ lụa, đồ sứ… và cả vải
dệt của Trung Quốc.