bộ quyền lực. Như vậy, Triều Tiên phụ thuộc hoàn toàn vào Nhật. Nhật Bản
đưa thêm 3000 quan chức người Nhật vào để thực hiện việc cai trị. Quân
đội Triều Tiên bị giải tán chỉ để lại một đội bảo vệ nhà vua. Thực chất đó là
sự giải giáp quân đội Triều Tiên để dễ bề thống trị. Binh lính Triều Tiên vô
cùng căm phẫn đã nổi dậy chống đối. Họ tham gia nghĩa quân chiến đấu.
Nghĩa quân ngày càng được tăng cường, diện hoạt động được mở rộng.
Tháng 10, tháng 11 đã phát triển lên các đạo Bình An, Hàm Kính và Áp
Lục Giang. Cuối năm 1907 các đội nghĩa binh đã thống nhất lực lượng ở
Dương Châu. Nghĩa quân có kế hoạch tấn công Hán Thành để lật đổ chính
phủ bảo hộ của Nhật nhưng không thực hiện được.
Năm 1907 số nghĩa quân lên tới 5 vạn, năm 1908 nghĩa quân lên tới 7
vạn, có tới hơn 1000 cuộc chiến đã xảy ra. Cuối năm 1908 cánh quân của
Hồng Phạm Đồ hoạt động du kích mạnh ở vùng Giáp Sơn đạo Hàm Kính.
Khắp trong 240 quận, nghĩa quân đều nổi dậy đánh Nhật. Nhiều sĩ quan
Nhật bị giết, quan lại bỏ trốn, giao thông ngưng trệ. Nhật Bản đã phải dùng
quân đội đàn áp. Với chính sách đốt sạch, giết sạch, phá sạch, các đội thảo
phạt đã bắt giết nhiều người dân vô tội, đốt phá hàng ngàn nóc nhà, cướp
phá của cải làm cho nhiều người lâm vào cảnh khốn cùng.
Nhật Bản đã dùng người Nhật làm lực lượng cảnh sát, quân đội để trấn
áp kiềm chế nhân dân, đàn áp nghĩa binh.
Từ năm 1907-1911 có tới khoảng 15 vạn người tham gia nghĩa binh và
đã chiến đấu tới 2906 trận.
Cuộc khởi nghĩa đã tấn công vào nền thống trị tàn bạo của Nhật,
truyền bá tư tưởng yêu nước và phát huy truyền thống bất khuất của dân
tộc.
3. Nhật Bản thôn tính Triều Tiên và phong trào dân tộc đầu
thế kỷ XX
Nhật Bản đã tính tới việc chiếm hoàn toàn đất Triều Tiên. Nội các
Nhật Bản và Yto