chàm, hồ tiêu cũng là những hàng xuất khẩu có giá trị. Năm 1358, đường
xuất khẩu đến 40.000 tấn
Năm 1810, tổng giá trị nhập khẩu của Philíppin là 5,3 triệu đôla, xuất
khẩu là 4,8 triệu đôla. Năm 1831, toàn bộ sản lượng xuất khẩu gai ở Manila
khoảng 316 tấn, sáu năm sau lên 2.500 tấn. Đến năm 1858, Manila có 14
công ty buôn bán và những công ty này nắm hết mạch máu buôn bán của
Philíppin. Các nước tư bản đua nhau đầu tư vào thuộc địa. Nhu cầu phát
triển kinh tế buộc Tây Ban Nha phải mở cửa nếu như không muốn bị mất
quyền khống chế Philíppin. Chính quyền thực dân Tây Ban Nha cho phép
tư bản nước ngoài lập các trạm buôn. Manila trở thành cảng mở không hạn
chế cho tư bản nước ngoài.
Tình hình ngày càng có nhiều biến đổi khi các cường quốc Mỹ, Anh,
Pháp và các nước tư bản khác ngày thêm lớn mạnh, có ý định thâm nhập
bằng biện pháp chính trị và quân sự Tây Ban Nha tìm cách củng cố chỗ
đứng ở Philíppin. Từ năm 1828, thực dân Tây Ban Nha dùng lực lượng
quân sự tiến đánh các vùng Nam và Bắc Philíppỉn; đến giữa thế kỷ XIX
hoàn thành công cuộc chinh phục toàn bộ quần đảo.
3. Phong trào đấu tranh của nhân dân đầu thế kỷ XIX
Đến đầu thế kỷ XIX, các phong trào nông dân, thị dân và tiểu tư sản
trí thức đã có những nhân tố mới rõ rệt. Đó là sự xuất hiện và phát triển của
ý thức dân tộc. Họ đứng lên đấu tranh chống bọn địa chủ, giáo sĩ và chĩa
mũi nhọn vào bọn thực dân Tây Ban Nha.
Ngay giai tầng phong kiến lúc này cũng không bằng lòng với chế độ
thực dân. Họ có thể bị đuổi khỏi chính quyền hoặc chỉ được tham gia một
cách hình thức mà không có thực quyền. Quyền chiếm hữu ruộng đất của
họ bị hạn chế bởi nhà thờ và chính quyền thực dân. Chính mâu thuẫn giữa
giai cấp phong kiến Philíppin với chính quyền Tây Ban Nha làm cho giai
cấp phong kiến có khả năng tham gia vào phong trào đấu tranh chung của
nhân dân chống lại ách nô lệ thuộc địa.