động cuộc du kích chiến tranh đánh đuổi Pháp, Nhật thì biến chuyển thành
đội du kích chính thức để hành động”
24
.
Thứ sáu, chế độ luyện tập: Những tiểu tổ mới tổ chức hoặc
những hội viên mới gia nhập phải luyện tập ít nhất 15 ngày rồi sau đó
“cứ cách 15 ngày lại tập một ngày”
25
. Nội dung luyện tập là luyện cho
thạo cách tập trung, giải tán, đánh tráo, giải vây, dùng hiệu lệnh; đồng
thời phải luyện cách lội sông, trèo núi, tập võ, “tập vẽ bản đồ và tập
xem bản đồ”
26
, tập phá các đường giao thông, cầu cống, các cơ sở
quân sự, kinh tế của địch.
Thứ bảy, về võ khí: Mỗi đội viên phải tự sắm lấy khí giới cần dùng
như: gươm dao, giáo mác, đồ phá đường, phá cầu. Nếu có điều kiện mua
sắm được súng, cất mìn, thuốc để băng bó, v.v. thì càng tốt.
Thứ tám, về kỷ luật: Trong lúc hành động, đội viên phải tuyệt
đối phục tùng đội trưởng; phải tham gia các cuộc luyện tập và “những
cuộc hành động” của tiểu tổ; phải tuyệt đối giữ bí mật cho đội. Nếu ai
vi phạm quy định thì tùy theo nặng nhẹ mà phạt phê bình, cảnh cáo,
khai trừ.
Sau cùng, Điều lệ của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc còn hướng
dẫn lễ gia nhập đội, lời tuyên thệ trung thành, hăng hái chiến đấu cho Tổ
quốc và giữ gìn bí mật của đội viên mới.
Sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám,
phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ. Nhằm đáp ứng yêu cầu
mới của cách mạng, cuối năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quyết
định tổ chức đội du kích tập trung thoát ly sản xuất. Thực hiện chủ
trương đó, Người trực tiếp thông qua kế hoạch tổ chức, xác định tên
gọi, nhiệm vụ, danh sách toàn đội gồm 12 người do Lê Quảng Ba làm
Đội trưởng, Lê Thiết Hùng làm Chính trị viên, Hoàng Sâm làm Đội
phó. Tháng 11-1941, lễ thành lập đội du kích Pác Bó (Cao Bằng) được
tổ chức, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến khai mạc lễ thành lập đội, Người