đường lối chiến lược, chủ trương của Đảng phải quán triệt trong Đảng
và quần chúng cách mạng; đấu tranh khắc phục cả “tả”, và “hữu”;
chăm lo công tác tổ chức, cán bộ và vấn đề xây dựng Đảng; phát huy
vai trò Mặt trận Việt Minh... Tư tưởng này khởi đầu từ Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (11-1939), được hoàn chỉnh
tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941).
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám
chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên trên hết, chuyển hình thức đấu tranh từ đấu tranh
chính trị lên đấu tranh vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, phát xít
Nhật, giải phóng dân tộc. 2) Nhanh chóng xây dựng thực lực cách
mạng hùng hậu, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. 3) Phương pháp
cách mạng là khởi nghĩa võ trang: “Cách mạng Đông Dương phải kết
liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”
101
. Để giành thắng lợi, Đảng
nêu rõ quan điểm khởi nghĩa toàn dân; phương thức khởi nghĩa là từ
khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. 4) Phải nhạy bén phát
hiện đúng thời cơ, nắm chắc thời cơ, chọn đúng thời điểm phát động
toàn dân vùng lên tổng khởi nghĩa, gắn việc lãnh đạo giành chính
quyền trong cả nước với việc bảo vệ chính quyền, quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,
độc lập dân tộc. Do bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng
quân sự của Đảng, lại do chính Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực
tiếp lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang, nên cách mạng Việt Nam đã giành
được thắng lợi vĩ đại. “Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các
dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo
cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”
102
.
_____________________
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6,
tr.538-539.