hoàn toàn ý chí xâm lược của chúng. Có thể nói, suốt 30 năm chiến
tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược (1945-1975), trong điều kiện phải lấy nhỏ thắng lớn, lấy
ít đánh nhiều, vũ khí và phương tiện chiến tranh đều kém địch cả về số
lượng và trình độ hiện đại, quân dân Việt Nam đã buộc đối phương
phải đối đầu không chỉ với lực lượng vũ trang, mà với cả dân tộc Việt
Nam, tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân phát triển đến trình độ
cao chưa từng thấy, với khối đoàn kết thống nhất về ý chí và hành
động của cả dân tộc.
với phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, quân, dân
Việt Nam triệt để thực hiện được khẩu hiệu: "Mỗi người dân là một
chiến sĩ, mỗi làng xã, khu phố là một pháo đài, mỗi chi bộ đảng là một
bộ tham mưu". Và như vậy hễ là người Việt Nam yêu nước, thì ai ai
cũng nhất tề đứng lên cứu nước. Sức mạnh vĩ đại của chiến tranh nhân
dân Việt Nam là ở chỗ đã huy động được mọi tầng lớp nhân dân đứng
lên kháng chiến, đã khai thác và phát huy đến mức cao nhất khả năng
và sức mạnh tiềm tàng to lớn của đất nước, của mọi người dân để tiến
hành chiến tranh. Đối phương đã phải dùng đến mọi loại vũ khí,
phương tiện chiến tranh hiện đại, nhưng không thể khuất phục được ý
chí kháng chiến của quân và dân Việt Nam. Rút cục, đội quân xâm
lược khổng lồ đông mà hoá ít, mạnh và hoá yếu, càng dấn sâu vào
chiến tranh, chúng càng bị sa lầy, lúng túng và bị động. Chiến tranh
toàn dân phát triển rộng rãi đã làm cho thế và lực của đối phương ngày
càng bị hao mòn, suy giảm, ý chí xâm lược sa sút, và cuối cùng không
tránh khỏi thất bại.
Khẳng định các cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là
cuộc chiến tranh nhân dân, điều có ý nghĩa quyết định là phải động
viên toàn dân, tổ chức toàn dân. Đây là một quan điểm rất cơ bản của
Đảng trong việc xây dựng lực lượng để tiến hành khởi nghĩa vũ trang
và chiến tranh cách mạng. V.I. Lênin từng nói: Để tiến hành chiến
tranh, phải động viên toàn bộ mọi lực lượng trong nhân dân; phải biến