và có điều kiện, có thể và cần đấu tranh ngoại giao thông qua đàm
phán với đối phương.
Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm
lược, đấu tranh ngoại giao, trong nhiều thời điểm phối hợp rất chặt
chẽ, nhịp nhàng với đấu tranh trên mặt trận quân sự, chính trị để góp
phần làm chuyển biến cục diện chiến tranh tiến tới giành thắng lợi.
Hơn nữa, đấu tranh ngoại giao có một vai trò to lớn trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa Việt Nam và quốc tế. Một đường lối đối ngoại
đúng đắn, phù hợp, sắc bén sẽ làm tăng thêm sức mạnh của các cuộc
kháng chiến. Tuy nhiên, kinh nghiệm lịch sử dựng nước, giữ nước của
dân tộc đã chứng minh: đấu tranh ngoại giao là một mặt trận quan
trọng, nhưng nó chỉ có thể tiến triển, thu được kết quả trên cơ sở
những thắng lợi về quân sự và chính trị mà quân và dân Việt Nam
giành được trên chiến trường. Chỉ khi xây dựng lực lượng chính trị và
quân sự của ta ngày càng lớn mạnh, đánh cho đối phương thất bại
nặng nề, làm cho lực lượng chính trị và quân sự của đối phương suy
yếu nghiêm trọng, các âm mưu chiến lược liên tiếp bị phá sản, thì mới
đè bẹp được ý chí xâm lược của đối phương, buộc đối phương đi đến
ký kết ngoại giao, chấp nhận những điều kiện của nhân dân Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, đường lối kháng chiến toàn dân gắn
liền với kháng chiến toàn diện là chiến lược đúng đắn của Đảng. Với
chủ trương huy động toàn dân kháng chiến, dưới nhiều hình thức, ở
những mức độ khác nhau, tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể từng
giai đoạn, từng thời kỳ, từng địa bàn, Đảng và chính quyền các cấp đã
có những chủ trương và giải pháp nhằm huy động rộng rãi sức mạnh
toàn dân, toàn quân, tạo ra và nhân lên sức mạnh tổng hợp to lớn, đảm
bảo cho sự nghiệp kháng chiến ngày càng phát triển. Kháng chiến toàn
dân đi đôi với kháng chiến toàn diện là một trong những nhân tố nền
tảng, mang ý nghĩa quyết định, làm nên những chiến thắng to lớn, toàn
diện của quân và dân Việt Nam trong 30 năm chiến tranh giải phóng
và bảo vệ Tổ quốc (1945-1954). Khi cuộc chiến tranh chống thực dân