- Từ giữa năm 1965 đến năm 1968: giai đoạn quân và dân
miền Nam trực tiếp đánh quân viễn chinh Mỹ. Trong giai đoạn này, có
các chiến dịch tiến công Plây Me, Tây Nguyên (từ 19-10 đến 26-11-
1965), chiến dịch tiến công Bầu Bàng - Dầu Tiếng ở Đông Nam Bộ
(từ 1-11 đến 27-11- 1965), chiến dịch tiến công Tây Sơn Tịnh ở
Quảng Ngãi (từ 20-2 đến 20-4-1966), chiến dịch tiến công Sa Thầy ở
Tây Nguyên (từ 18-10 đến 6-12-1966), chiến dịch phản công đánh bại
cuộc hành quân Gianxơn Xiti, Đông Nam Bộ (từ 22-2 đến 15-4-1967),
chiến dịch tiến công Đắc Tô ở Bắc Tây Nguyên (từ 3 đến 23-11-
1967). Chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh ở bắc Quảng Trị
(Xuân - Hè 1968) và các cuộc tiến công vào nội đô Sài Gòn và Huế
trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có quy
mô như những chiến dịch tiến công mang tính chất chiến lược... Như
thế, về loại hình, bên cạnh các chiến dịch tiến công, đã xuất hiện các
chiến dịch phản công; về quy mô, lực lượng tham gia chủ yếu là cấp
sư đoàn hoặc sư đoàn tăng cường cùng lực lượng vũ trang địa phương;
về cách đánh chiến dịch và sự chỉ đạo vận dụng chiến thuật trong
chiến dịch cũng như nghệ thuật vận dụng các chiến thuật, lập thế trận
chiến dịch, nghệ thuật tổ chức, điều hành chiến dịch có sự phát triển
cao hơn giai đoạn trước.
- Từ năm 1970 đến năm 1971: giai đoạn Mỹ và quân đội Sài Gòn
mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn Đông Dương. Đây là giai đoạn quân
và dân miền Nam mở các hoạt động và các chiến dịch phản công như: hoạt
động phản công làm thất bại cuộc tiến công sang Campuchia của Mỹ và
chính quyền Sài Gòn; ba chiến dịch phản công đánh bại ba cuộc hành quân
quy mô lớn của địch ở Đường 9 - Nam Lào, đông bắc Campuchia và
Đường số 6 (Công Pông Chăm - Công Pông Thom). Nghệ thuật chiến dịch
phản công của ta đã phát triển lên một trình độ mới, khá hoàn chỉnh: Lực
lượng sử dụng lên tới tương đương cấp quân đoàn, diễn ra ở vòng ngoài
chiến trường chính miền Nam Việt Nam, giành thắng lợi có ý nghĩa chiến
lược, tạo thế và lực cho cuộc tiến công chiến lược năm 1972.