việc củng cố căn cứ địa - hậu phương với tích cực chiến đấu chống địch càn
quét lấn chiếm”.
Xây dựng căn cứ địa - hậu phương, xây dựng chế độ mới trong
chiến tranh phải đi đôi với bảo vệ. Tư tưởng đó đã thấm đượm vào từng
người dân và chuyển hoá thành sức mạnh vật chất, cho nên mặc dù cuộc
kháng chiến chống xâm lược của ta có trải qua những thử thách khốc liệt,
nhưng về cơ bản, hậu phương lớn của cả nước, hậu phương tại chỗ, các căn
cứ địa, các vùng giai phóng không những vẫn được giữ vững, củng cố mà
còn liên tục phát triển và không ngừng được mở rộng. Trong khi đó, hậu
phương của địch ngày càng bị thu hẹp.
Cùng với việc ra sức củng cố, xây dựng căn cứ địa - hậu phương về
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội..., quân và dân Việt Nam tích
cực tiến công đánh phá hậu phương địch, biến hậu phương địch thành tiền
phương của ta, không ngừng mở rộng căn cứ địa - hậu phương của ta. Tư
tưởng về xây dựng, củng cố căn cứ địa - hậu phương, xây dựng chế độ mới
trong chiến tranh vững mạnh toàn diện được xuất phát từ yêu cầu thực tiễn
của cuộc chiến tranh nhân dân lấy “nhỏ đánh lớn”, “ít địch nhiều”, từ lôgic:
sự vững mạnh của căn cứ địa, hậu phương được bảo đảm bởi các nhân tố
địa - chính trị, địa - quân sự, địa - kinh tế, địa - văn hoá.
Thực tiễn 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975) cho thấy:
Điều kiện tiên quyết bảo đảm cho căn cứ địa - hậu phương đứng vững, phát
triển và hoàn thành được chức năng nhiệm vụ, chính là sự kết hợp một cách
nhuần nhuyễn hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ: xây dựng chế độ mới gắn
liền với bảo vệ chế độ mới và bảo vệ chế độ mới được dựa trên thành quả
của xây dựng chế độ mới.
Tư tưởng xây dựng căn cứ địa - hậu phương chiến tranh, xây dựng
chế độ mới trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
(1945-1975) thể hiện sự phát triển đến đỉnh cao của tư tưởng “dựng nước đi
đôi với giữ nước” trong điều kiện một cuộc chiến tranh cách mạng. Cần
thấy rằng, tư tưởng hậu phương chiến tranh của Việt Nam với sự kế thừa