nghĩa xã hội. Bởi vậy, nó trực tiếp được thừa hưởng những thành tựu bước
đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Ngược lại, quá
trình đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng chính là quá
trình củng cố quốc phòng. Miền Bắc càng tiến lên chủ nghĩa xã hội, thể chế
chính trị càng mạnh, cơ sở vật chất kỹ thuật càng dồi dào thì tiềm lực quốc
phòng của cả nước ta càng được tăng cường, nền quốc phòng càng thêm
vững mạnh. Dựa trên nền tảng của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt được
xây dựng và củng cố ở miền Bắc mà nền quốc phòng đã phát huy tác dụng
to lớn trong việc bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thực hiện nghĩa
vụ quốc tế cao cả, hoàn thành sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước.
Tư tưởng xây dựng nền quốc phòng trong 30 năm chiến tranh giải
phóng (1945-1975) là sự kế thừa và phát triển tư tưởng “dựng nước phải đi
đôi với giữ nước” của các bậc tiền nhân. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ lấy nước”. Cùng với quá trình vận động, phát triển của cách mạng
Việt Nam giai đoạn 1945-1975, tư tưởng xây dựng nền quốc phòng cũng có
sự vận động, phát triển tương ứng. Tuy vậy, mục đích xuyên suốt và những
nội dung cơ bản của tư tưởng đó không hề thay đổi.
1. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân
Tư tưởng xây dựng nền quốc phòng trong 30 năm chiến tranh giải
phóng (1945-1975) là một bộ phận trong tư tưởng quân sự Việt Nam hiện
đại. Trước hết, nền quốc phòng đó phải là một nền quốc phòng toàn dân,
hay nói cách khác nền quốc phòng đó được xây dựng bởi toàn dân, dựa vào
sức mạnh toàn diện của nhân dân, cả nước.