đấu và chiến đấu, hình thức tham gia xây dựng kinh tế của Quân đội Nhân
dân Việt Nam chủ yếu và phổ biến là tăng gia sản xuất tại chỗ. Sau ngày
hoà bình lập lại ở miền Bắc, Đảng chủ trương thành lập một số nông trường
quân đội, một số tổ chức liên kết kinh tế giữa Quân chủng Hải quân với
ngành thuỷ sản; giữa thông tin với bưu điện; giữa công binh với giao
thông... Một số nhà máy quốc phòng, ngoài sản xuất các sản phẩm quốc
phòng cũng tận dụng công suất máy móc và vật tư dư thừa để sản xuất sản
phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Tại các vùng giải phóng,
các căn cứ kháng chiến ở miền Nam, do không có điều kiện tổ chức được
mô hình kinh tế kết hợp quốc phòng như ở miền Bắc, Đảng đã chủ trương
đẩy mạnh tăng gia sản xuất, triệt để khai thác nguồn hậu cần tại chỗ.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, trước nhu cầu vật chất của
chiến trường rất cao, trách nhiệm tham gia xây dựng kinh tế của Quân đội
Nhân dân Việt Nam nói riêng, nền kinh tế hậu phương lớn miền Bắc nói
chung, lại càng nặng nề hơn, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định:
“Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến
đấu để giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà... tích cực tham gia sản xuất để góp phần xây dựng kinh tế, xây
dựng và củng cố hậu phương.
Hai nhiệm vụ ấy đều rất quan trọng, nhất trí và kết hợp chặt chẽ với
nhau vì đều nhằm làm cho quân đội ta ngày càng mạnh và miền Bắc ngày
càng vững chắc”
46
.
Nói đến sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, trước hết phải nói
đến sức mạnh quân sự. Sức mạnh quân sự trong tư tưởng xây dựng nền
quốc phòng toàn dân (1945- 1975) là sức mạnh của toàn dân đánh giặc, dựa
vào nền tảng của chế độ xã hội mới, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm
nòng cốt. Đây là điều khác biệt căn bản so với tư tưởng xây dựng quốc
phòng của các nước khi mà họ cho rằng sức mạnh quân sự chủ yếu dựa vào
sức mạnh của quân đội thường trực.