khác, trong quá trình lãnh đạo, Đảng đã ra sức tận dụng thắng lợi của
đấu tranh chính trị, của công tác binh vận, của các cuộc khởi nghĩa
quần chúng để phát triển tiến công quân sự, tiêu diệt địch được nhiều
hơn.
Kết hợp quân sự với chính trị, tác chiến với binh vận, tác chiến
với nổi dậy, kết hợp tiêu diệt lực lượng quân sự địch với phát động
quần chúng giành quyền làm chủ đã trở thành những nguyên tắc trong
nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc ở Việt Nam.
Trong lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, mỗi thứ quân đều
có vị trí, tác dụng, đặc điểm và quy luật hoạt động riêng của nó. Vì vậy,
trong nghệ thuật chỉ đạo tác chiến, Đảng ta đã phát huy hết sức mạnh của
từng thứ quân. Do ba thứ quân lại có nhiệm vụ chung và có mối quan hệ
khăng khít với nhau trong tác chiến, nên trong lãnh đạo xây dựng lực
lượng, Đảng đã giải quyết tốt vấn đề phối hợp tác chiến giữa ba thứ quân cả
về chiến lược cũng như trong chiến dịch và chiến đấu để phát huy sức
mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang nhân dân, nhằm đánh bại những
đội quân xâm lược lớn mạnh hơn ta cả về quân số và trang bị kỹ thuật.
Trong quá trình trưởng thành của mình, lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam đã từ bộ binh đơn thuần từng bước phát triển thành
một lực lượng vũ trang gồm nhiều binh chủng và quân chủng. Bộ đội
chủ lực Việt Nam bao gồm lục quân, quân chủng phòng không -
không quân và hải quân. Bộ đội địa phương và dân quân tự vệ không
phải chỉ có bộ binh mà còn có bộ binh tinh nhuệ (bộ đội đặc công),
pháo binh, bộ đội cao xạ, công binh, thông tin... Bởi vậy nghệ thuật
quân sự Việt Nam những năm này không chỉ có nhiệm vụ chỉ đạo tác
chiến các lực lượng bộ binh, các lực lượng lục quân, mà còn phải chỉ
đạo tác chiến các binh chủng khác, các lực lượng phòng không -
không quân và hải quân; chỉ đạo hoạt động của các binh đoàn vận
chuyển chiến lược. Nó có nhiệm vụ chỉ đạo tác chiến hiệp đồng binh