Các cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam thường bắt đầu trong điều kiện nhân dân Việt Nam mới có một
lực lượng vũ trang còn nhỏ bé. Bởi vậy, hình thức phổ biến và quyết
định lúc đầu là nổi dậy của quần chúng vũ trang, trước hết ở những
nơi quân thù sơ hở. Về sau, quân địch càng tăng cường lực lượng vũ
trang để phản công trở lại, lực lượng vũ trang ta ngày một trưởng
thành, thì vai trò tác chiến của lực lượng vũ trang cũng ngày càng
quan trọng. Do đó trong chiến tranh giải phóng nghệ thuật quân sự của
Việt Nam chủ yếu là nghệ thuật chỉ đạo tác chiến của lực lượng vũ
trang được phát triển ngày càng cao và ngày càng hoàn chỉnh. Đồng
thời, đó cũng là nghệ thuật chỉ đạo hoạt động quân sự ngày càng phát
triển của đông đảo quần chúng đứng lên cầm vũ khí đánh giặc trong
suốt quá trình chiến tranh.
Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã có lực lượng
vũ trang được xây dựng từ trong thời bình, nên hình thức nổi lên lúc
đầu là tác chiến của lực lượng vũ trang để tiêu diệt quân xâm lược, bảo
vệ chính quyền, bảo vệ đất đai của Tổ quốc. Như trong cuộc kháng
chiến chống Pháp trước đây, thì bên cạnh hình thức tác chiến của lực
lượng vũ trang, còn có hình thức vũ trang nổi dậy của đông đảo quần
chúng ở vùng địch tạm chiếm để khôi phục lại quyền làm chủ của
mình. Do đó, trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nghệ thuật quân sự
của toàn dân đánh giặc là nghệ thuật chỉ đạo hoạt động tác chiến của
lực lượng vũ trang đã phát triển đến trình độ cao ngay từ đầu, đồng
thời vẫn chỉ đạo hoạt động quân sự của đông đảo quần chúng được tổ
chức ngày càng chặt chẽ cầm vũ khí đứng lên đánh giặc.
Trước hết, Đảng đã xác định đúng đắn nhiệm vụ của lực lượng
vũ trang và của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh toàn dân, toàn
diện. Đi đôi với việc tiêu diệt lực lượng quân sự của địch, các lực
lượng vũ trang ta luôn chú ý xây dựng và phát triển cơ sở chính trị,
đẩy mạnh đấu tranh chính trị của quần chúng, đẩy mạnh công tác binh
vận, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ. Mặt