nghiệm quý báu. Trước hết, vấn đề tổ chức biên chế phải đáp ứng nhu
cầu của thực tế chiến đấu, phù hợp nhiệm vụ chiến lược và phương
châm tác chiến trong từng giai đoạn của cách mạng và chiến tranh. Tổ
chức biên chế phải thích hợp với khả năng trang bị cung cấp, phải dựa
trên cơ sở nền kinh tế nước nhà, phải phù hợp điều kiện cụ thể và đặc
điểm chiến trường Việt Nam. Có như thế mới bảo đảm có đơn vị
mạnh, cơ quan mạnh, binh chủng mạnh, tổ chức chỉ huy và lãnh đạo
mạnh, tạo thành một sức mạnh đồng bộ thể hiện chất lượng chiến đấu
ngày càng cao của lực lượng vũ trang Việt Nam.
Đảng chú trọng lãnh đạo đẩy mạnh chính quy hóa và hiện đại
hóa quân đội. Đảng cho rằng việc xây dựng quân đội cách mạng chính
quy là nhằm phục vụ những mục tiêu chính trị cao cả của cách mạng;
mọi chế độ, điều lệnh phải phản ánh bản chất cách mạng tốt đẹp của
quân đội kiểu mới, dựa trên sự giác ngộ chính trị, ý thức kỷ luật tự
giác, tinh thần chủ động của cán bộ, chiến sĩ. Việc ban hành các chế
độ, điều lệnh, điều lệ đã có tác dụng lớn đối với công cuộc xây dựng
quân đội. Các chế độ như chế độ nghĩa vụ quân sự, chế độ phục vụ sĩ
quan và hạ sĩ quan (nay là Luật sĩ quan), các điều lệnh và điều lệ công
tác đã góp phần tích cực tăng cường sự tập trung thống nhất, đẩy mạnh
chính quy hóa, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân
Việt Nam.
Đảng coi hiện đại hóa quân đội là một yêu cầu phát triển có
tính quy luật của việc trực tiếp nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân
đội, đặc biệt là trong hoàn cảnh nhân dân Việt Nam đang tiến hành
xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của một
nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, bên cạnh đó là nhiệm vụ tăng
cường và đổi mới trang bị, đẩy mạnh hiện đại hóa, bảo đảm cho quân
đội có trang bị kỹ thuật ngày càng cao để đủ sức đánh thắng bất cứ kẻ
thù xâm lược nào. Đảng đặt vấn đề xây dựng quân đội hiện đại thích
hợp với điều kiện cụ thể và đáp ứng tốt nhất yêu cầu quốc phòng của
Việt Nam. Trên cơ sở kết hợp chặt chẽ yêu cầu quốc phòng với yêu