và trụ lại của bộ đội giải phóng; khả năng phản ứng của quân đội Sài Gòn
và khả năng trực tiếp can thiệp quân sự trở lại của Mỹ.
Bộ Chính trị kết luận: dù Mỹ có can thiệp như thế nào ta cũng có
đầy đủ quyết tâm và điều kiện đánh thắng và chúng cũng không thể cứu
vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Do đó, chúng ta đang
đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về
quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay
để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, để tiến tới
hoà bình thống nhất Tổ quốc.
Bộ Chính trị hạ quyết tâm và thông qua kế hoạch chiến lược giải
phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Ngoài kế hoạch này, Bộ
Chính trị còn dự kiến: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập
tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung
ương quyết định chọn Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu trong năm
1975.
Thực hiện quyết tâm chiến lược trên đây của Bộ Chính trị và Quân
uỷ Trung ương, hai miền Nam, Bắc khẩn trương hoàn tất các mặt chuẩn bị,
cả về thế và lực. Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu quyết định thành lập 3
quân đoàn 1, 2, 4; mở rộng và kéo dài tuyến vận tải chiến lược Bắc - Nam
tới Nam Bộ; miền Bắc dồn sức chi viện mạnh mẽ, toàn diện, liên tục cho
miền Nam.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giai phóng hoàn toàn miền Nam
mở màn từ ngày 4-3-1975 bằng chiến dịch Tây Nguyên mà trận đột phá
chiến lược là việc đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Qua 20 ngày đêm
chiến đấu, đến ngày 24-3-1975, chiến dịch Tây Nguyên đã giành thắng lợi
hoàn toàn. Quân, dân miền Nam đánh bại cuộc phản kích của Sư đoàn 23
Việt Nam cộng hòa, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng rút chạy trên
đường số 7, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2, Quân khu II, giải phóng
Tây Nguyên, nhanh chóng phát triển xuống các tỉnh ven biển miền Trung.