giữa các mặt đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao
buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari mà nội dung cơ bản nhất là “Quân Mỹ
phải ra còn quân ta thì ở lại” như nhận định của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn,
mở ra giai đoạn mới - giai đoạn “đánh cho Nguỵ nhào”.
đ) Giai đoạn từ tháng 1-1973 đến tháng 4-1975
Thực ra, khi ký Hiệp định Pari, Mỹ không còn mong giành thắng lợi
ở Việt Nam, nhưng chính quyền Níchxơn vẫn chưa chịu từ bỏ chính sách
đối với miền Nam Việt Nam, vẫn nuôi hy vọng tiếp tục cuộc chiến tranh
bằng việc sử dụng quân đội Sài Gòn nhằm tạo ra một khoảng cách cần thiết
giữa việc Mỹ rút ra với sự sụp đổ của chế độ Thiệu, qua đó, gỡ gạc thể diện
cho Mỹ. Vì vậy, trước, trong và sau khi Hiệp định ký kết, Mỹ không ngừng
chuyển vũ khí, gài nhân viên, cố vấn Mỹ ở lại làm nhiệm vụ chỉ huy, hỗ trợ
cho chính quyền và quân đội Sài Gòn.
Sau ngày Hiệp định Pari được ký kết, quân đội Sài Gòn liên tiếp mở
các cuộc hành quân càn quét, các chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, lấn
chiếm vùng giải phóng. Trong khi đó, Mỹ duy trì lực lượng “ngăn đe” ở
các vùng phụ cận quanh Việt Nam, đồng thời tiếp tục các hoạt động ngoại
giao nhằm ngăn chặn sự phát triển của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân Việt Nam.
Các hoạt động chống phá Hiệp định Pari của Mỹ và chính quyền
Sài Gòn ngày càng tăng, gây cho chúng ta một số lúng túng khi đối phó.
Đến giữa năm 1973, ở Khu 5, chính quyền giải phóng mất 26 vạn dân, 45
xã, 302 ấp, địch đóng thêm 200 bốt; Khu 6 và Khu 7, ta mất 29 vạn dân,
308 ấp, chính quyền Sài Gòn đóng thêm 287 đồn bốt. Tháng 5-1973, Bộ
Chính trị họp và chỉ ra những sơ hở, khuyết điểm của ta trong thời điểm
này. Tiếp đó, tháng 7- 1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 họp,
khẳng định con đường của cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực,
nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới này là tiếp
tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kẻ thù chính
vẫn là đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị do Mỹ bảo trợ. Hội nghị đề ra