thì phải ngừng bắn... Bất kỳ hoà bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm
vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước.
Tranh lấy hoà bình không phải là một việc dễ, nó là cuộc đấu tranh
trường kỳ gian khổ phức tạp, nó có những điều kiện có lợi, cũng có những
khó khăn...”
18
.
Nhận thức về cuộc đấu tranh trong đàm phán để đi tới ký kết Hiệp
định Giơnevơ, ngoài mong muốn chủ quan muốn kết thúc cuộc chiến tranh
kéo dài, còn xuất phát từ những điều kiện thực tế khách quan, cả thuận lợi
và khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Những điều kiện lợi cho ta
là: các nước bạn ủng hộ ta, nhân dân thế giới cũng ủng hộ ta, nhân dân ta
hăng hái và tin tưởng vào Đảng và Chính phủ ta. Đảng và Chính phủ ta
lãnh đạo khéo thì nhân dân ta nhất định đoàn kết đấu tranh trong hoà bình
cũng như trong kháng chiến. Những điều khó khăn là: Mỹ ra sức phá hoại
việc lập lại hoà bình ở Đông Dương, phe chủ hoà Pháp thì vẫn chưa dứt
khỏi ảnh hưởng của Mỹ”
19
.
Khi cuộc đàm phán đi vào giai đoạn quyết định, khả năng chấm dứt
chiến tranh trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết, đây cũng chính là thời điểm dễ
nảy sinh những tư tưởng sai lầm, vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Đó là lúc
chúng ta cần nêu cao tư tưởng phấn đấu giành lấy hoà bình. Vì vậy, cần
phải kiên quyết chống tư tưởng tả khuynh, nghĩa là muốn đánh đến cùng,
không thấy được âm mưu lâu dài của Pháp cũng như mưu đồ của Mỹ, chỉ
thiên về tác chiến mà coi thường ngoại giao, không thấy được quan hệ biện
chứng giữa mặt trận ngoại giao và mặt trận quân sự. Tuy quân và dân Việt
Nam đã đánh bại quân Pháp ở Điện Biên Phủ, nhưng so sánh lực lượng trên
chiến trường chưa có sự thay đổi cơ bản vì toàn bộ binh lực của Pháp ở
Điện Biên Phủ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng binh lực của Pháp trên
toàn Đông Dương. Chính vì thế tận dụng những tình thế có lợi trên mặt trận
quân sự để đi đến thắng lợi quyết định trên mặt trận ngoại giao mới là một
sách lược đúng đắn, cũng là điểm kế thừa truyền thống quân sự Việt Nam.