Từ quan điểm coi trọng dân, coi trọng vai trò của sức dân, “trật
thuyền mới biết dân như nước", hay quan điểm “Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng", "Có dân là có tất cả”, “Dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong"..., hầu hết những
người lãnh đạo khởi nghĩa và chiến tranh ở Việt Nam xưa nay đều có
ý thức triệt để dựa vào dân để tiến hành chiến tranh, để xây dựng căn
cứ địa, hậu phương cho các cuộc khởi nghĩa và kháng chiến.
Sau khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược, quân thù thường
sử dụng quân đội và chính quyền đô hộ do chúng dựng lên để thống
trị, áp bức, đàn áp, bóc lột, vơ vét tài nguyên, của cải của nhân dân
Việt Nam. Bên cạnh cuộc xâm lược lãnh thổ là cuộc "xâm lược văn
hóa" - nhiều thế lực xâm lược Việt Nam có chủ ý đồng hóa dân tộc
Việt Nam, hủy hoại nền văn hóa và những truyền thống lâu đời hòng
diệt tận gốc ý thức dân tộc của nhân dân Việt Nam, ách xâm lược đi
liền với những nỗi thống khổ đè nặng lên đời sống nhân dân Việt
Nam, dặm trường lịch sử nhiều "tai ương, địch họa" và từ khát vọng
hòa bình, nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước, căm thù giặc
sâu sắc, sẵn sàng đứng lên chiến đấu chống ngoại xâm. Chính vì vậy,
trong lịch sử, cho dù kẻ xâm lược đã chiếm đóng Việt Nam và áp đặt
ách cai trị thì chúng vẫn không thể khuất phục được ý chí đấu tranh
của nhân dân việt Nam, không thể can thiệp sâu tới đời sống, văn hóa
truyền thống trong hầu hết các làng xã và những vùng nông thôn rộng
lớn. Chính đó là nơi nuôi dưỡng và tích lũy sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, của ý thức dân tộc, của lối sống và bản sắc văn hóa Việt
Nam. Đó cũng chính là cơ sở cho những lãnh tụ nghĩa quân, những
người lãnh đạo kháng chiến dựa vào để xây dựng đất đứng chân, tổ
chức lực lượng và động viên nhân dân cùng chiến đấu.
Từ cuối thế kỷ thứ II trước Công nguyên đến thế kỷ X, nạn
ngoại xâm kéo dài hơn một nghìn năm, họa "vong thân", nhà tan, nước